Ảnh minh họa.
Liên quan đến vấn đề này, tại Công văn số 2160/VKSTC-V14 ngày 05/6/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao về việc giải đáp một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định của Bộ luật Hình sự năm, Bộ luật Tố tụng hình sự, thi hành tạm giữ và thi hành án hình sự nêu rõ: Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 quy định việc thi hành BLHS số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 (Nghị quyết số 41/2017/QH14) thì những quy định của BLHS năm 2015 không có lợi cho người phạm tội so với quy định của BLHS năm 1999 thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 00h00’ ngày 01/01/2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng cửa BLHS năm 1999 và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành BLHS năm 1999 để giải quyết.
Qua đối chiếu cho thấy, quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 đã định lượng, nhằm cụ thể hóa các tình tiết định tính (đất có diện tích lớn hoặc giá trị lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) tại các điểm, khoản của Điều 174 BLHS năm 1999.
Do vậy, việc xác định quy định của Điều 229 BLHS năm 2015 là không có lợi hay có lợi cho người phạm tội so với Điều 174 BLHS năm 1999 thì tùy từng trường hợp cụ thể, trong quá trình phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử đối với hành vi phạm tội xảy ra trước 00h00’ ngày 01/01/2018, các cơ quan tố tụng ở địa phương căn cứ vào tình tiết, hậu quả xảy ra trong từng vụ việc cụ thể để trao đổi, xem xét, thống nhất xử lý; cần theo các trường hợp như sau:
Thứ nhất, nếu áp dụng quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 mà đủ điều kiện xử lý hình sự, còn áp dụng quy định tương ứng tại Điều 174 BLHS năm 1999 thì không đủ điều kiện xử lý hình sự đối với người có hành vi vi phạm thì quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 là không có lợi và không được áp dụng để xử lý.
Thứ hai, nếu quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 và Điều 174 BLHS năm 1999 đều có thể xem xét, áp dụng, đủ điều kiện để xử lý hình sự đối với người có hành vi phạm tội thì tùy từng trường hợp mà xem xét, giải quyết, cụ thể như sau:
- Trường hợp hành vi phạm tội diễn ra liên tục trong các năm 2016, 2017 và 2018, đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì có thể tham khảo, vận dụng quy định tại mục 2 Phần III Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999 để xử lý; theo đó, người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo quy định của BLHS năm 2015 nhưng cần xem xét quy định tương ứng của BLHS năm 1999, nếu có quy định có lợi hơn cho người phạm tội thì áp dụng tinh thần quy định đó để quyết định hình phạt đối với họ.
- Trường hợp hành vi vi phạm pháp luật diễn ra không liên tục thi hành vi thực hiện ở thời điểm nào đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì áp dụng quy định của BLHS và văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn áp dụng BLHS tại thời điểm đó để xử lý (các hành vi xảy ra trong năm 2016 và năm 2017 thì áp dụng BLHS năm 1999 và các văn bản hướng dẫn BLHS năm 1999; hành vi xảy ra trong năm 2018 thì áp dụng dụng BLHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn BLHS năm 2015 để xử lý).
Luật sư NGUYỄN HỒNG HÀ
Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa
Giải trình về đề xuất đổi tên thẻ căn cước công dân thành thẻ căn cước