Ảnh minh họa.
Nội dung vụ án
Đêm ngày 19/11/2020, vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt giữa Võ Tuấn Q. (Q. lùn) và Nguyễn Xuân H. (H. Ven), Nguyễn Cao Minh T. (T. lực sỹ) đã chuẩn bị một khẩu súng AK (với hộp tiếp đạn có 04 viên đạn), Nguyễn Đức Việt Đ. chuẩn bị 01 khẩu súng tự chế, sau đó cùng Võ Tuấn Q., Phạm Hoàng A. điều khiển xe mô tô đi tìm nhóm thanh niên Võ Lâm (nhóm H. Ven) để đánh nhau. Đến khu vực ngã ba đường ĐD – DT, thấy có nhóm thanh niên đang đuổi theo từ phía sau nghi ngờ là nhóm người của H. Ven nên Nguyễn Cao Minh T. đã lấy hộp tiếp đạn lắp vào súng, lên đạn và bắn 2 phát liên tục hướng lên trời; Nguyễn Đức Việt Đ. cũng lấy súng ra hướng ra sau bắn 01 phát. Sau khi bắn, thấy nhóm này vẫn đuổi theo nên T. đã hướng nòng súng AK về phía nhóm thanh niên phía sau bắn một phát. Viên đạn do T. bắn đã trúng vào bụng Trần Đức Y. đang điều khiển xe mô tô đi phía sau cùng chiều gây thương tích với vết thương thủng dạ dày do hỏa khí, với tỉ lệ tổn thương 32%.
Sau khi gây án, T. đã giấu khẩu súng AK vào lùm cây bên đường và điện thoại báo cho Nguyễn Thành G. (Tý), Q cũng để xe mô tô lại rồi bỏ chạy. Nguyễn Đức Việt Đ. và Phạm Hoàng A. đã đến vị trí cất giấu súng AK và lấy súng bỏ vào túi da màu đen kèm theo 02 viên đạn thể thao và 02 viên đạn AK đưa Nguyễn Thành G. đem túi đựng súng đi cất giấu.
Quá trình xử lý vụ án
Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2022/HSST ngày 06/01/2022 của TAND tỉnh K đã tuyên các bị cáo phạm tội như sau:
- Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 khoản 3 Điều 57; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự (BLHS), xử phạt bị cáo Nguyễn Cao Minh T. 14 (mười bốn) năm tù về tội “Giết người”. Áp dụng: khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Cao Minh T. 03 (ba) năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”. Áp dụng Điều 55 BLHS: Tổng hợp hình phạt với bị cáo Nguyễn Cao Minh T.: 17 (mười bảy) năm tù.
- Áp dụng: Điểm n, p khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 57; Điều 58; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Võ Tuấn Q. 11 (mười một) năm tù về tội “Giết người”.
- Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 57; Điều 58; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Phạm Hoàng A. 09 (chín) năm tù về tội “Giết người”. Áp dụng: khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Phạm Hoàng A. 22 (hai mươi hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Áp dụng Điều 55 BLHS: Tổng hợp hình phạt với bị cáo Phạm Hoàng A.: 10 (mười) năm 10 (mười) tháng tù.
- Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 101; khoản 3 Điều 102; Điều 58 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Việt Đ. 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Giết người”. Áp dụng Điều 104 BLHS: Tổng hợp hình phạt với Bản án số 67/2021/HS-ST ngày 17/6/2021 của TAND thành phố K, bị cáo Nguyễn Đức Việt Đ. phải chịu hình phạt chung cho cả hai bản án là: 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù.
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành G. 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 30/11/2020.
- Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng và án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
* Bản án hình sự phúc thẩm số 66/2022/HS-PT ngày 21/3/2022 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức Việt Đ. sửa một phần Bản án sơ thẩm số 01/2022/HSST ngày 06/01/2022 của TAND tỉnh K. Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 57; khoản 2 Điều 101; khoản 3 Điều 102; Điều 58 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Việt Đ. 04 (bốn) năm tù về tội “Giết người”.
Vấn đề cần rút kinh nghiệm
Tòa án nhân dân tỉnh K quyết định hình phạt tù đối với bị cáo Nguyễn Đức Việt Đ. không đúng quy định pháp luật, vì: Nguyễn Đức Việt Đ. khi thực hiện hành vi phạm tội chỉ mới 15 tuổi 9 tháng 07 ngày, bị cáo phạm tội cùng với các đồng phạm khác thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 57 BLHS. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 06 năm 06 tháng tù về tội “Giết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 123 BLHS, là có vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật để xét xử người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt theo quy định tại khoản 2 Điều 101 và khoản 3 Điều 102 BLHS.
Khoản 2 Điều 101 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định như sau: “Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù”;
Khoản 3 Điều 102 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần ba mức hình phạt cao nhất tại Điều 100 và 101 của Bộ luật này”.
Theo những quy định trên thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Đức Việt Đ. là 04 năm tù. Bản án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 06 năm 06 tháng tù là vượt quá mức án tối đa mà luật quy định.
PV