(LSO) - Việc miễn, giảm tiền tạm ứng án phí, án phí là một nội dung trong việc giải quyết vụ việc dân sự, tuy nhiên hệ thống pháp luật chưa thật sự đồng bộ, cụ thể, nên có nhiều vướng mắc trong việc thụ lý, giải quyết vụ án.
Hệ thống pháp luật tố tụng dân sự hiện nay không hề có điều luật nào quy định, giải thích cụ thể khái niệm về án phí dân sự, nhưng thực tiễn áp dụng pháp luật có thể hiểu án phí trong vụ án dân sự là một khoản chi phí tiến hành tố tụng mà đương sự có nghĩa vụ nộp vào ngân sách nhà nước khi kết thúc vụ án. Trước khi bắt đầu quá trình giải quyết vụ án dân sự thì người khởi kiện phải nộp một khoản tiền do Tòa án tạm tính (tiền tạm ứng án phí), biên lai nộp tiền tạm ứng án phí chính là căn cứ để Tòa án tiến hành thụ lý vụ án.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi giúp người khởi kiện có thể thực hiện được quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm, pháp luật đã quy định những chủ thể nhất định trong những trường hợp cụ thể được pháp luật quy định có thể được miễn giảm tạm ứng án phí. Cụ thể, khi thuộc các trường hợp sau thì người khởi kiện được miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí: “a) Người lao động khởi kiện đòi tiền lương, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; giải quyết những vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; b) Người yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; c) Người khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn; d) Người yêu cầu bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín; đ) Trẻ em; cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo; người cao tuổi; người khuyết tật; người có công với cách mạng; đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ.” (khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14) và khi thuộc vào những trường hợp sau thì người khởi kiện được giảm nộp một phần tiền tạm ứng án phí, án phí đối với những trường hợp sau: “Người gặp sự kiện bất khả kháng dẫn đến không có đủ tài sản để nộp tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú thì được Tòa án giảm 50% mức tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án mà người đó phải nộp” (khoản 1 Điều 13).
Thủ tục thực hiện việc miễn giảm tiền tạm ứng án phí tại Điều 14 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 quy định: Người đề nghị được miễn, giảm tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, án phí, lệ phí Tòa án thuộc trường hợp quy định tại Điều 12, Điều 13 của Nghị quyết này phải, có đơn đề nghị nộp cho Tòa án có thẩm quyền kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh thuộc trường hợp được miễn, giảm. Điều này đồng nghĩa nếu thuộc trường hợp được miễn, giảm nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án quy định tại Điều 12, 13 thì người đề nghị phải có đơn đề nghị.
Như vậy, Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 đã ghi nhận “đơn đề nghị miễn giảm tạm ứng án phí” là điều kiện bắt buộc để người khởi kiện có thể được xem xét miễn, giảm tạm ứng án phí. Khoản 5 Điều 15 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 quy định: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí, án phí và tài liệu, chứng cứ chứng minh thuộc trường hợp được miễn, giảm, Tòa án thông báo bằng văn bản về việc miễn, giảm hoặc không miễn, giảm tạm ứng án phí, án phí. Trường hợp không miễn, giảm thì phải nêu rõ lý do“.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 4 Điều 195 BLTTDS năm 2015 thì: “Trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Thẩm phán phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo”. Thực tiễn áp dụng tại các Tòa án hiện nay khi người khởi kiện thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tạm ứng án phí thì thời điểm nhận đơn khởi kiện (nếu đáp ứng các điều kiện khởi kiện khác) thì Tòa án sẽ thụ lý luôn, ngày thụ lý là ngày mà người khởi kiện nộp đơn khởi kiện. Vấn đề đặt ra ở đây là, nếu sau khi thụ lý vụ án, người khởi kiện không làm đơn đề nghị được miễn tiền tạm ứng thì sẽ giải quyết như thế nào, bởi việc làm đơn đề nghị theo quy định của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 là yêu cầu bắt buộc để được xem xét miễn tiền tạm ứng án phí. Ý nghĩa của vấn đề này rất quan trọng bởi, khi Tòa án đã thụ lý mà đương sự không làm đơn đề nghị đồng nghĩa với việc không đủ điều kiện để được miễn tiền tạm ứng án phí. Như vậy Tòa án đã thụ lý đơn khởi kiện mà được sự không nộp tiền tạm ứng án phí (là vi phạm nghiêm trọng tố tụng theo Điều 29 Công văn 16/1999/KHXX ngày 01/02/1999 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng).
Để làm rõ hơn về vướng mắc, mâu thuẫn giữa các quy định của pháp luật này, chúng tôi xin đưa ra một ví dụ cụ thể sau: A làm đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu B bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Vụ việc này thuộc trường hợp miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14. Trong trường hợp này, theo quy định tại khoản 4 Điều 195 BLTTDS thì Tòa án phải thụ lý ngay khi nhận được đơn khởi kiện của A. Vậy khi thụ lý xong, Tòa án có yêu cầu A phải làm đơn đề nghị miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí nhưng A không làm thì sẽ giải quyết như thế nào? Bởi khi A không làm đơn đề nghị miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí thì A không đủ điều kiện để được miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí và việc Tòa án thụ lý vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Bên cạnh nội dung về điều kiện trong thủ tục miễn, giảm tạm ứng án phí nêu trên, thực tiễn áp dụng quy định về miễn, giảm tạm ứng án phí còn gặp phải vướng mắc: Trước khi thụ lý, Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công có thẩm quyền xét đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí sơ thẩm (khoản 1 Điều 15 Nghị quyết 326) và Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện (Khoản 2 Điều 191 BLTTDS 2015) có thể đồng nhất là 01 hay 02 chủ thể độc lập? Xuyên suốt BLTTDS không hề có quy định nào đề cập đến hoạt động xét đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí; hoạt động này chỉ được đề cập trong Nghị quyết 326, tuy nhiên chúng tôi nhận thấy, dường như nhà làm luật đang hướng tới xây dựng một thủ tục độc lập trong giai đoạn trước khi thụ lý vụ án đó là hoạt động xét đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí sơ thẩm.
Minh chứng cho luận điểm trên còn được thể hiện trong quy định tại khoản 4 Điều 195 BLTTDS 2015 về thời điểm thụ lý vụ án trong trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì ngày thụ lý chính là ngày mà Thẩm phán nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo và Khoản 5 Điều 15 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 hiện nay đang mâu thuẫn nhau về khoảng thời gian thụ lý và xét đơn miễn, giảm tạm ứng án phí; theo đó Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí, án phí và tài liệu, chứng cứ chứng minh thuộc trường hợp được miễn, giảm, Tòa án thông báo bằng văn bản về việc miễn, giảm hoặc không miễn, giảm tạm ứng án phí, án phí. Trường hợp không miễn, giảm thì phải nêu rõ lý do. Ngoài ra, tại Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 Ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự không có biểu mẫu về Thông báo miễn, giảm hoặc không miễn, giảm tiền tạm ứng án phí, án phí.
Thiết nghĩ, việc miễn, giảm tiền tạm ứng án phí, án phí là một nội dung trong việc giải quyết vụ việc dân sự do đó để việc giải quyết vụ việc dân sự được thống nhất, có căn cứ thì vấn đề đặt ra đối với hệ thống pháp luật cần đồng bộ, cụ thể. Trong thời gian tới, mong rằng cơ quan có thẩm quyền sẽ có những hướng dẫn giải quyết những nội dung nêu trên.
NGUYỄN XUÂN BÌNH - Ths. PHÙNG THẮNG Tạp chí Tòa án |