/ Trao đổi - Ý kiến
/ Vướng mắc và kiến nghị trong việc áp dụng biện pháp tư pháp “Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm”

Vướng mắc và kiến nghị trong việc áp dụng biện pháp tư pháp “Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm”

04/09/2025 06:45 |

(LSVN) - Trong quá trình giải quyết vụ án, việc “Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm” đóng vai trò đặc biệt quan trọng, vừa đảm bảo vụ án được giải quyết toàn diện và thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, còn góp phần ngăn chặn hành vi phạm tội tiếp diễn cũng như thu hồi tài sản do phạm tội mà có. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định này thời gian qua đã bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đánh giá, phân tích cụ thể những khó khăn, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện nhằm bảo đảm sự thống nhất và hiệu quả trong công tác xử lý vật, tiền liên quan đến tội phạm theo đúng quy định của pháp luật.

Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế hình sự của Nhà nước, được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) (BLHS), do các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với người phạm tội, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không có năng lực trách nhiệm hình sự, pháp nhân thương mại thực hiện hành vi phạm tội nhằm thay thế hoặc hỗ trợ hình phạt; giáo dục, ngăn ngừa đối tượng gây nguy hiểm cho xã hội; góp phần khắc phục thiệt hại và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại và mang tính nhân đạo.

Biện pháp tư pháp gồm 2 nhóm: Nhóm biện pháp tư pháp hỗ trợ hình phạt (quy định tại các Điều 47, 48, 49 BLHS) và nhóm biện pháp tư pháp thay thế hình phạt (quy định tại Điều 96 BLHS). Bài viết này, nhóm tác giả tập chung phân tích các vướng mắc liên quan đến việc áp dụng biện pháp tư pháp “Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm” theo Điều 47 BLHS.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Tại Điều 47 BLHS, biện pháp ‘‘Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm’’ được quy định như sau:

“1. Việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy được áp dụng đối với:

 a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội;

 b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội;

c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành. 

2. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không được tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. 

3. Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu”.

Như vậy, các biện pháp tư pháp áp dụng đối với vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm được quy định tại Điều 47 BLHS, bao gồm:

Thứ nhất, tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tiêu huỷ đối với:

- Công cụ, phương tiện (của người phạm tội) dùng vào việc phạm tội: những đối tượng này mang tính chất là vật chứng của vụ án, mang dấu vết tội phạm như vũ khí, hung khí được sử dụng để thực hiện tội xâm hại tính mạng, sức khỏe của người khác, là xe máy, ô tô sử dụng để mua bán trái phép chất ma túy… Đối với các vật chứng này, việc tịch thu có thể để sung ngân sách nhà nước nếu là tiền, tài sản hoặc để tiêu hủy nếu không có giá trị hoặc không sử dụng được.

- Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy (vật do phạm tội) mà có: như vật hoặc tiền do phạm tội nhận hối lộ mà có; hoặc nhà, xe ô tô được mua từ tiền nhận hối lộ hoặc khoản thu lợi bất chính từ việc phạm một số tội trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thương mại...

- Khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội.

- Vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành: là những vật thuộc hàng cấm kinh doanh, tàng trữ như chất nổ, chất cháy, chất độc, các chất ma túy…

Thứ hai, tịch thu trả lại cho chủ sở hữu đối với: Vật, tiền (của người khác) bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép làm công cụ, phương tiện phạm tội.

Thứ ba, tịch thu đối với: Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm.

Vướng mắc, bất cập

Việc quy định về các loại vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm và các biện pháp tư pháp giải quyết các đối tượng trên là rõ ràng, tuy nhiên trên thực tế nghiên cứu và áp dụng đã xảy ra một số vướng mắc, bất cập sau:

Thứ nhất, vật, tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm về bản chất chính là vật chứng của vụ án, vì vậy giải quyết vật chứng chính là xử lý vật chứng. Hơn nữa, Bộ luật Hình sự là luật nội dung, quy định các loại vật chứng cần xử lý thì Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) là luật hình thức sẽ quy định cách thức, thẩm quyền xử lý các loại vật chứng đã quy định tại BLHS.

Tuy nhiên, đối chiếu giữa Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS nhóm tác giả thấy Điều 106 BLTTHS chưa có sự đồng bộ với Điều 47 BLHS, điều này được thể hiện như sau: Điều 47 BLHS quy định về các loại vật chứng là: (1) Công cụ, phương tiện (của người phạm tội) dùng vào việc phạm tội; (2) Vật, tiền do phạm tội mà có và (3) Vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành. Đối với ba loại vật chứng này Điều 106 BLTTHS đã có quy định cụ thể về việc xử lý. Còn đối với các vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm khác gồm: (4) Vật, tiền do mua bán, trao đổi những thứ đó mà có, (5) Khoản thu lời bất chính từ việc phạm tội, (6) Vật, tiền (của người khác) bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép và (7) Vật, tiền là tài sản của người khác nếu người này có lỗi trong việc để người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm thì Điều 106 BLTTH chưa có quy định về xử lý các loại vật chứng này.

Do đó, khi quyết định xử lý vật chứng trong bản án, đối với loại vật chứng thuộc nhóm (1), (2) và (3), Hội đồng xét xử (HĐXX) phải áp dụng đồng thời Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS. Đối với các loại vật chứng thuộc nhóm (4), (5), (6) và (7), HĐXX chỉ áp dụng Điều 47 BLHS để giải quyết. Đây là bất cập cần sớm được khắc phục để đồng bộ giữa luật nội dung và luật hình thức.

Thứ hai, trong thực tế, xuất hiện trường hợp trả lại vật, tiền (của người khác) bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép làm công cụ, phương tiện phạm tội cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nhưng họ không nhận lại hoặc không tìm được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì giải quyết đối với vật, tiền trên như thế nào, có tịch thu tài sản này không?

Về việc xử lý tài sản bị chiếm đoạt trong trường hợp tại phiên toà dù đã được HĐXX giải thích quyền được đòi lại tài sản bị chiếm đoạt, yêu cầu bồi thường nhưng bị hại có ý kiến không yêu cầu bị cáo trả lại tài sản đó. Tại Công văn số 233/TANDTC ngày 01/10/2019 của Toà án nhân dân Tối cao về việc trao đổi nghiệp vụ thì đối với trường hợp trên như sau: Theo quy định tại Điều 195 Bộ luật Dân sự thì “chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu huỷ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản”.

Như vậy, trong trường hợp tại phiên toà dù đã được HĐXX giải thích quyền được đòi lại tài sản bị chiếm đoạt, yêu cầu bồi thường nhưng bị hại có ý kiến không yêu cầu bị cáo phải trả lại tài sản đó và cũng không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại thì Toà án không tuyên tịch thu tài sản đó mà ghi nhận ý kiến của bị hại trong bản án.

Có quan điểm cho rằng [1] việc Tòa án nhân dân Tối cao quy định như vậy đã vô hình chung làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm; giảm tính nghiêm khắc, răn đe của pháp luật hình sự, tài sản không bị tịch thu có thể được sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội hoặc vi phạm pháp luật khác, gây bất lợi cho đấu tranh phòng chống tội phạm, vì vậy trong trường hợp đó cần phải tịch thu sung ngân sách nhà nước. Tác giả đồng tình với quan điểm trên và kiến nghị bổ sung cách thức giải quyết “tịch thu sung ngân sách Nhà nước” trong trường hợp chủ sở hữu từ chối lại vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép.

Đối với trường hợp không tìm được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép vẫn chưa có quy định cụ thể để xử lý, vì vậy cơ quan có thẩm quyền cần sớm bổ sung hướng dẫn cách thức giải quyết đối với trường hợp này.

Thứ ba, đối với trường hợp vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng tài sản đó vào việc thực hiện tội phạm thì có thể bị tịch thu. Đối với trường hợp này xảy ra hai vấn đề như sau: (1) Việc xác định lỗi của chủ tài sản trong việc để cho người phạm tội sử dụng tài sản đó vào việc thực hiện tội phạm là lỗi cố ý hay lỗi vô ý. Nếu người này cố ý thì có bị xử lý hình sự với vai trò là người giúp sức cho bị cáo thực hiện hành vi phạm tội hay không? (2) Nếu chủ tài sản có lỗi (cố ý) trong việc để cho người phạm tội sử dụng tài sản đó vào việc thực hiện tội phạm thì theo quy định tại khoản 3 Điều 47 BLHS quy định biện pháp tư pháp trong trường hợp này là tịch thu, tuy nhiên sau khi tịch thu vật, tiền sẽ xử lý như thế nào, tịch thu sung ngân sách nhà nước (nếu tài sản còn giá trị) hay tịch thu tiêu huỷ (nếu tài sản không còn giá trị sử dụng), hiện nay điều luật vẫn còn bỏ ngỏ dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn.

Kiến nghị

Để khắc phục những vướng mắc, bất cập khi áp dụng biện pháp tư pháp ‘‘Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm’’ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn những vấn đề sau:

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung Điều 106 BLTTHS để bao quát đầy đủ các loại vật, tiền được quy định tại Điều 47 BLHS, bảo đảm tính thống nhất giữa luật nội dung và luật hình thức, đồng thời ban hành văn bản hướng dẫn liên ngành để tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.

Thứ hai, đối với việc xử lý tài sản khi chủ sở hữu không nhận lại hoặc không xác định được, kiến nghị bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 47 BLHS theo hướng: nếu chủ sở hữu từ chối nhận lại tài sản hoặc không xác định được chủ sở hữu thì tài sản đó bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước, nhằm tránh nguy cơ tài sản tiếp tục bị sử dụng vào hành vi vi phạm pháp luật khác.

Thứ ba, đối với về việc xử lý tài sản của người khác có lỗi để bị sử dụng vào hành vi phạm tội, kiến nghị ban hành văn bản hướng dẫn hoặc sửa đổi Điều 47 BLHS để phân biệt giữa lỗi cố ý và vô ý. Đồng thời, đối với lỗi cố ý, nếu đủ căn cứ thì phải xử lý hình sự với vai trò đồng phạm. Về tài sản bị tịch thu, đề nghị quy định rõ căn cứ xử lý tiếp theo, cụ thể: sung vào ngân sách nhà nước nếu có giá trị, hoặc tiêu hủy nếu không còn giá trị sử dụng, nhằm tránh lúng túng trong thực tiễn xét xử.

[1] Tiến sĩ Trần Đình Thắng, “Biện pháp tư pháp – Thực trạng và giải pháp”; Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 09, tháng 5/2020.

 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2025;

2. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2025;

3. Bộ luật Dân sự năm 2015;

4. Công văn số 233/TANDTC-PC ngày 01/10/2019 của Toà án nhân dân tối cao về việc trao đổi nghiệp vụ;

5. Tiến sĩ Trần Đình Thắng, “Biện pháp tư pháp – Thực trạng và giải pháp”; Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 09, tháng 5/2020.

THU PHƯƠNG, VINH ĐOÀN

Tòa án Quân sự Khu vực Quân khu 3

ANH DŨNG

Tòa án Quân sự Khu vực Thủ đô Hà Nội

Các tin khác