/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Xác định giá trị pháp lý và thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng điện tử giao dịch dân sự

Xác định giá trị pháp lý và thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng điện tử giao dịch dân sự

26/11/2025 05:00 |

(LSVN) - Văn bản công chứng điện tử (VBCCĐT) là văn bản công chứng thể hiện dưới dạng chứng thư điện tử được công chứng viên tạo lập, chứng nhận theo quy định của pháp luật công chứng, có giá trị tương đương văn bản giấy. VBCCĐT có hiệu lực từ thời điểm được ký bằng chữ ký số của công chứng viên (CCV) và chữ ký số của tổ chức hành nghề công chứng (TCHNCC), có hiệu lực thi hành đối với các bên và có giá trị chứng cứ. Các quy định này đã được nêu trong Luật Công chứng năm 2024, tuy nhiên một số quy định còn mang tính khái quát. Bài viết phân tích các yêu cầu và cơ chế bảo đảm giá trị pháp lý của văn bản công chứng điện tử, thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng điện tử. Từ đó, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về giá trị pháp lý và thời điểm của văn bản công chứng điện tử có đối tượng là giao dịch dân sự.

1. Những yếu tố tạo nên giá trị pháp lý của văn bản công chứng điện tử giao dịch dân sự

Công chứng điện tử là việc công chứng viên của TCHNCC bằng phương tiện điện tử xác nhận tính hợp pháp, tính chính xác, không trái đạo đức xã hội của nội dung các văn bản, tài liệu, giấy tờ, hợp đồng, các giao dịch dân sự trên môi trường số để tạo ra các VBCCĐT mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc theo yêu cầu của các bên[1].

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Để VBCCĐT có hiệu lực thì trước hết cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự gồm:

- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

- Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

Trước khi tiến hành công chứng điện tử giao dịch, CCV phải tiến hành xác thực, kiểm tra đầy đủ các điều kiện có hiệu lực nêu trên.

Chủ thể yêu cầu công chứng phải có năng lực hành vi và năng lực pháp luật dân sự đầy đủ. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân phát sinh kể từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết đi, được pháp luật xác định có hoặc không có các quyền. Cách hiểu này được áp dụng tương tự đối với tổ chức. Ví dụ: Người thuê nhà ở công vụ không được cho thuê lại, cho mượn, ủy quyền quản lý nhà ở công vụ[2]; Năng lực hành vi dân sự là khả năng chủ thể tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo điều kiện của pháp luật.  Ví dụ: Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có quyền giao kết hợp đồng lao động khi có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật của người đó[3].

Trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự hoặc năng lực pháp luật dân sự, CCV có quyền và nghĩa vụ yêu cầu người yêu cầu công chứng làm rõ, xác minh. CCV thông qua nghiệp vụ của mình để tiến hành kiểm tra năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự. Khi các chủ thể không thể chứng minh, CCV có quyền và nghĩa vụ từ chối công chứng nhưng phải giải thích cho người yêu cầu công chứng được biết.

Yếu tố then chốt để một giao dịch hợp pháp và phát sinh hiệu lực là không vi phạm ý chí tự nguyện của các bên. Đặc biệt trong quan hệ tài sản chung, tài sản thuộc đồng sở hữu, do đó, bên cạnh ý chí tự nguyện giữa bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao, ý chí tự nguyện của các đồng sở hữu là điều hết sức cần thiết. Trong trường hợp có cơ sở nghi ngờ về sự tự nguyện, CCV có quyền và nghĩa vụ yêu cầu người yêu cầu công chứng làm rõ, xác minh. CCV thông qua nghiệp vụ của mình để tiến hành kiểm tra ý chí tự nguyện của các chủ thể. Khi các chủ thể không thể chứng minh, CCV có quyền và nghĩa vụ từ chối công chứng nhưng phải giải thích cho người yêu cầu công chứng được biết.

Nội dung và mục đích của giao dịch yêu cầu sự chứng nhận của CCV, thông qua việc CCV ký và có đóng dấu của TCHNCC, nội dung và mục đích đó được công nhận và bảo đảm tuân thủ pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Trong trường hợp người yêu cầu công chứng cố tình che giấu các nội dung vi phạm dẫn đến việc “qua mặt” công chứng viên thì giao dịch đó mặc nhiên được coi là bất hợp pháp. Khi nhận thấy mục đích và nội dung công chứng vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội, CCV có quyền và nghĩa vụ từ chối công chứng nhưng phải giải thích cho người yêu cầu công chứng được biết.

Bên cạnh các yêu cầu trên, một trong các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực là hình thức của giao dịch đó. Hình thức phổ biến nhất được pháp luật quy định là giao dịch bằng văn bản với các đối tượng là bất động sản, tài sản mà pháp luật yêu cầu phải đăng ký, ngoài ra còn có giao dịch  có đối tượng là tài sản tạo ra nguồn thu nhập chính cho gia đình theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có quy định linh hoạt trong việc công nhận giá trị của giao dịch khi một trong các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch trong trường hợp văn bản không đúng quy định của pháp luật hoặc vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, hai trường hợp ngoại trừ này thường áp dụng khi giải quyết tranh chấp giữa các bên tại Tòa án.

Trong thực tế, cơ quan đăng ký hoàn toàn có thể từ chối đăng ký nếu hồ sơ thiếu hoặc vi phạm pháp luật về mặt hình thức. Do đó, việc tuân thủ quy định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch, trong đó có hình thức của giao dịch là yêu cầu bắt buộc, tiên quyết đối với các giao dịch liên quan đến bất động sản và tài sản phải đăng ký.

Văn bản công chứng điện tử do CCV tạo tập và xây dựng trên nền tảng số, bao gồm các yếu tố sau:

Thứ nhất, văn bản công chứng điện tử do CCV tạo lập trực tiếp, xác nhận đồng thời với các bên theo quy định của pháp luật. Các bên có quyền được kiểm tra, chỉnh sửa trong trường hợp có sai sót nhưng phải được xác nhận và ghi nhận ngay tại thời điểm đó.

Thứ hai, văn bản công chứng điện tử chứa đựng các nội dung, tình tiết thể hiện ý chí của các bên được thể hiện thông qua thỏa thuận bằng văn bản được công chứng. Đây là cơ sở đầy đủ và rõ ràng nhất thể hiện sự tự nguyện của các bên trong việc xác lập giao dịch.

Thứ ba, những nội dung và thông tin trong giao dịch, hợp đồng sau khi được công chứng viên kiểm tra, xác nhận bằng hệ thống thông tin và biện pháp nghiệp vụ sẽ được xác nhận bằng chữ ký của các bên, cuối cùng là chữ ký số của CCV và TCHNCC. Thông qua hành vi chứng nhận, thừa nhận, nghĩa vụ công chứng viên được ràng buộc với giá trị và tính thực tế của giao dịch đó.

Thứ tư, văn bản công chứng điện tử chứa đựng các nội dung và thông tin có tính cá nhân của các chủ thể tham gia, yêu cầu tính bảo mật toàn diện, chỉ được cung cấp trong trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác[4]. Các thông tin này bao gồm sinh trắc học, chữ ký số, giấy tờ tùy thân,... của các bên.

Thứ năm, văn bản công chứng điện tử được bảo đảm tính toàn vẹn, không bị bác bỏ hoặc bị thay đổi bởi ý chí riêng biệt của bất kỳ chủ thể nào. Công chứng viên có nghĩa vụ ghi nhận và bảo toàn nội dung công chứng mà các chủ thể yêu cầu công chứng đã thỏa thuận, xác nhận. Công chứng viên không được phép tự ý chỉnh sửa, thay đổi nội dung vì bất kỳ lý do nào. Sau khi hoàn tất văn bản công chứng, CCV có nghĩa vụ chuyển giao cho người yêu cầu kiểm tra, trường hợp có yêu cầu chỉnh sửa, thay đổi thì phải tuân thủ điều kiện nghiêm ngặt và thực hiện theo quy trình mà pháp luật quy định.

Thứ sáu, việc thay đổi nội dung của văn bản công chứng phân thành hai loại. Đối với các lỗi liên quan đến in ấn, đánh máy,... mà không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các bên, CCV phải tuân thủ quy trình theo quy định về cách thức đánh dấu, chữ ký xác nhận của CCV tại Điều 52 Luật công chứng 2024. Đối với các sai sót về nội dung, không được sửa trực tiếp mà phải thực hiện thủ tục sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ theo quy định pháp luật tại  Điều 53 Luật này.

Thứ bảy, văn bản công chứng không kể môi trường thực hiện trực tiếp hay trực tuyến đều phải lưu trữ lâu dài và đảm bảo an toàn tại tổ chức hành nghề công chứng đó, thời hạn này ít nhất 30 năm đối với các giao dịch có đối tượng là bất động sản, ít nhất 10 năm đối với các loại giao dịch khác kể từ ngày văn bản công chứng có hiệu lực[5]. Quy định này áp dụng thống nhất cho cả hình thức công chứng điện tử và công chứng truyền thống, không kể môi trường và dạng thể hiện của văn bản công chứng.

Cuối cùng, VBCCĐT có giá trị thi hành và giá trị chứng cứ, được bảo đảm thực hiện và hợp pháp thông qua vai trò nghề nghiệp của công chứng viên - chức danh bổ trợ tư pháp và trách nhiệm vật chất theo quy định của pháp luật.

Để bảo đảm được giá trị pháp lý của văn bản công chứng điện tử, vai trò của công chứng viên là vô cùng quan trọng. Đây là chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động công chứng. Công chứng viên là chức danh đáp ứng đủ điều kiện, được Bộ trưởng bộ Tư pháp bổ nhiệm để thực hiện hoạt động nghề nghiệp của mình: xác minh, xác nhận và bảo đảm cho các hợp đồng, giao dịch mà mình công chứng.

Xuất phát từ các điều kiện nghiêm ngặt để một người trở thành công chứng viên, họ có nghĩa vụ cẩn trọng và chuyên nghiệp trong việc chọn lọc, xác nhận cho các giao dịch đủ điều kiện, chất lượng để đưa vào đời sống xã hội. Hoạt động này không chỉ giảm nguy cơ tranh chấp mà còn giảm áp lực cho các cơ quan khác trong việc xác minh nội dung giao dịch, giảm gánh nặng cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, thương mại. Để kiểm tra, đánh giá và đưa ra định hướng phù hợp cho các hợp đồng, giao dịch, trong quá trình tiến hành hoạt động công chứng của mình, CCV cần tuân thủ các yêu cầu sau:

i) Công chứng viên phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, đạo đức hành nghề công chứng. CCV không được vì bất cứ lợi ích nào mà làm tổn hại đến lợi ích của chủ thể khác hoặc vi phạm pháp luật;

ii) Công chứng viên trong hoạt động công chứng phải bảo đảm tính khách quan, trung thực, đóng vai trò trung gian, “trọng tài” đối với giao dịch đó. Đồng thời, CCV phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng;

iii) Thực hiện có hiệu quả các quyền mà pháp luật quy định như quyền đề nghị các bên cung cấp trung thực, đầy đủ các giấy tờ cần thiết, được khai thác, sử dụng thông tin từ các cơ sở dữ liệu theo quy định của pháp luật để thực hiện việc công chứng,… và các quyền khác theo quy định của Luật Công chứng 2024;

iv) Thực hiện đúng và nghiêm ngặt các nghĩa vụ nghề nghiệp, bao gồm: tuân thủ pháp luật và đạo đức hành nghề, tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của các bên, giữ bí mật về nội dung công chứng,... các nghĩa vụ khác theo quy định của  Luật Công chứng 2024;

v) Có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, am hiểu về lĩnh vực mà mình công chứng, từ đó xây dựng được văn bản công chứng với nội dung và điều khoản phù hợp. Bên cạnh đó, lời chứng của công chứng viên phải khách quan, chính xác, thống nhất với nội dung và hình thức của hợp đồng, giao dịch.

Ở các quốc gia có hệ thống công chứng phát triển như: Trung Quốc, Pháp, Tây Ban Nha,... giá trị của văn bản công chứng được xem tương đương với bản án, việc thực hiện mang tính bắt buộc, không thể chối bỏ trừ khi có căn cứ nghi ngờ. Việc này giảm đáng kể các quy trình giải quyết khi có tranh chấp xảy ra, thay vào đó là tập trung vào chất lượng và tính chính xác từng bước công chứng.

Hiện nay vai trò này của văn bản công chứng tại Việt Nam chưa được phát huy tối đa. Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2025 ghi nhận các phán quyết, quyết định được thi hành không chỉ có bản án, quyết định của Tòa án mà còn có quyết định của Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh,...[6] Đây là các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết các tranh chấp, vụ án dân sự và vụ việc dân sự.

Do đó cần xem xét nhiều hơn về giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Bởi, văn bản này được thực hiện bởi một chức danh được bổ nhiệm, đã trải qua quá trình đào tạo, tập sự, được công nhận và hoạt động dưới sự giám sát nghiêm ngặt của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về yêu cầu nghề nghiệp của CCV. Vì vậy, việc đề xuất xem xét giá trị pháp lý của văn bản công chứng như một bản án có hiệu lực là có cơ sở và phù hợp.

Trong bối cảnh hội nhập và yêu cầu của xã hội, Luật Công chứng 2024 đã có bước chuyển mình trong việc ghi nhận công chứng điện tử. Cùng với đó, hiện nay nguồn nhân lực công chứng viên đang tăng cao nhưng chất lượng chưa có tính đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Công chứng điện tử là một nội dung mới được ghi nhận và ứng dụng từ 01/7/2025, do đó còn cho thấy nhiều lúng túng, bất cập trong việc áp dụng quy định của pháp luật vào thực tiễn công chứng.

Một số vấn đề có thể kể đến như: i) Quy định về công chứng điện tử còn chưa cụ thể, còn mang tính khái quát, ghi nhận; ii) Dữ liệu thông tin để phục vụ  việc đối chiếu thông tin và cung cấp cho công chứng điện tử chưa liên thông; iii) Nghiệp vụ công chứng viên chưa cao, chưa kịp thích nghi với sự thay đổi về cách thức công chứng; iv) Giá trị thi hành có tính vượt trội đối với các bên hơn là đối với các cơ quan, tổ chức có liên quan, dẫn đến giá trị pháp lý của văn bản công chứng chưa được phát huy tối đa; v) Người dân còn e ngại trong việc lựa chọn hình thức công chứng điện tử thay cho công chứng truyền thống.

2.  Giá trị pháp lý của văn bản công chứng điện tử đối với hợp đồng, giao dịch

Giá trị chứng cứ: Luật Công chứng 2024 ghi nhận giá trị chứng cứ của văn bản công chứng điện tử theo quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật Công chứng năm 2024: “Các chi tiết, sự kiện được nêu trong văn bản đã công chứng được xác định là sự thật, không cần chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu”. Đây được xem là giá trị pháp lý cao nhất của văn bản công chứng, là cơ sở để bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên.

Trong các trường hợp tranh chấp trong giao dịch, đặc biệt là các giao dịch liên quan đến bất động sản và tài sản phải đăng ký, tài sản có giá trị lớn, văn bản có công chứng, không kể là văn bản giấy hay dữ liệu số đều là phương thức để Tòa án ghi nhận các quyền và nghĩa vụ và là cơ sở để giải quyết tranh chấp. Tòa án sẽ căn cứ theo nội dung trong văn bản công chứng để xác định tính hợp pháp của các đề nghị và quan điểm bác bỏ của đương sự. Ưu điểm của giao dịch có công chứng so với giao dịch, hợp đồng không có công chứng là yếu tố chứng minh.

Do không thông qua quy trình công chứng, chứng thực, hợp đồng giữa các bên vẫn có thể là chứng cứ nhưng phải chứng minh được tính xác thực của văn bản đó. Trong trường hợp nhận thấy có dấu hiệu nghi ngờ về tính khách quan, trung thực của hợp đồng, Tòa án có thể yêu cầu đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan xuất trình bản gốc, bản chính của hợp đồng.

Giá trị thi hành: Nếu như giá trị chứng cứ là cơ sở để bảo vệ các bên khi có tranh chấp xảy ra thì giá trị thi hành lại đóng vai trò cốt lõi, là mục tiêu của văn bản công chứng. Chỉ khi nội dung của giao dịch được thực hiện, giao dịch đó mới cho thấy được ý nghĩa đối với thực tiễn đời sống. Như đã trình bày ở trên, pháp luật có những quy định cụ thể về yêu cầu công chứng đối với các đối tượng trong giao dịch phải công chứng và quy định “mềm hóa” đối với các giao dịch không cần công chứng.

Không thể phủ nhận rằng việc lược bỏ quy trình công chứng bắt buộc mang đến nhiều tiện lợi, song cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các chủ thể, nhất là đối với tài sản có giá trị lớn. Khi các bên bằng ý chí của mình xác lập giao dịch đều mong muốn nội dung đã thỏa thuận được thực hiện đúng và đầy đủ. Đây cũng là cơ sở để ràng buộc các bên thực hiện đúng thỏa thuận.

Việc có một thiết chế để đảm bảo cho giao dịch là hết sức cần thiết. Bên cạnh giá trị chứng cứ, giá trị thi hành là yếu tố để Nhà nước duy trì hệ thống công chứng bên cạnh các thiết chế bảo đảm chứng cứ khác như luật sư, trợ giúp viên pháp lý,... Công chứng cho thấy tính ưu việt so với các thiết chế thông thường, là lớp bảo vệ để ràng buộc các quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận không chỉ với các bên mà còn đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan. Các đối tượng này có thể kể đến như cơ quan thuế, cơ quan đăng ký đất đai,... cũng có nghĩa vụ thi hành đối với các nội dung trong giao dịch nếu liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của họ.

Cơ chế của giá trị thi hành thể hiện ở việc khi một trong các bên vi phạm thỏa thuận, bên còn lại có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền trên cơ sở giao dịch đã được công chứng áp dụng các biện pháp cần thiết, thậm chí là cưỡng chế để buộc bên còn lại thực hiện nghĩa vụ mà không cần xem xét lại giá trị pháp lý của giao dịch đó.

Đây cũng là đặc thù của công chứng trong hệ thống công chứng Latinh, văn bản công chứng có giá trị như bản án, có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác về giao dịch, khi có sự vi phạm từ bên kia, bên còn lại có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Giá trị của văn bản công chứng điện tử có ý nghĩa quan trọng đối với hợp đồng, giao dịch và mang những đặc điểm chung của văn bản công chứng như:

Thứ nhất, VBCCĐT là biện pháp để các bên thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Việc các bên thỏa thuận và ký và hợp đồng thể hiện ý chí tự nguyện của chính mình. Bên cạnh các đối tượng phải công chứng, khi các bên lựa chọn công chứng hợp đồng, giao dịch thể hiện thiện chí và mong muốn thực hiện đối với thỏa thuận đó.

Cũng bởi vai trò xác nhận và bảo đảm tính hợp pháp cho giao dịch, công chứng như một lớp bảo vệ các bên khỏi sự vi phạm của bên kia. Sau thời điểm văn bản công chứng có hiệu lực và hoàn tất thủ tục đăng ký đối với các đối tượng phải đăng ký, tức là giao dịch có hiệu lực, các bên phải thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung mà mình đã ký kết.

Khi có tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng, giao dịch, văn bản công chứng là một trong những chứng cứ xác đáng nhất, không cần phải chứng minh đối với thỏa thuận của các bên. Do đó nếu một bên vi phạm nghĩa vụ của mình và các bên không thể thương lượng, bên còn lại có quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích của bên bị vi phạm.

Thứ hai, VBCCĐT bảo đảm được nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Theo đó, các bên tự nguyện, sử dụng ý chí và khả năng của mình để tham gia giao dịch, ký kết hợp đồng. Công chứng viên với vai trò là “người gác cổng pháp lý” có nghĩa vụ rà soát, kiểm tra và soạn thảo theo yêu cầu của các bên để bảo đảm nội dung mà các bên thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật hay trái đạo đức xã hội.

Bên cạnh đó, CCV còn giải thích các quyền và nghĩa vụ, hậu quả pháp lý của các nội dung trong giao dịch cho các bên, từ đó xác nhận được chính xác tính tự nguyện, đồng thuận. Trên cơ sở đó, giao dịch, hợp đồng được công chứng có hiệu lực ràng buộc đối với các bên, được pháp luật thực định bảo vệ.

Thứ ba, văn bản công chứng nói chung và văn bản công chứng điện tử nói riêng giúp giảm đáng kể nguy cơ tranh chấp giữa các bên, đặc biệt là các hợp đồng, giao dịch đối với bất động sản. Bởi tính chứng cứ, ưu điểm không cần chứng minh của mình, văn bản công chứng là chứng cứ đáng tin cậy trước Tòa án, bảo vệ các chủ thể trước sự vi phạm của bên kia.

Bên cạnh các nội dung đã nêu, VBCCĐT còn có những đặc thù sau:

VBCCĐT giúp giảm nguy cơ giả mạo chủ thể và các giấy tờ trong giao dịch. Đối với công chứng điện tử, kể cả công chứng điện tử trực tiếp và công chứng điện tử trực tuyến, công chứng viên đều phải tiến hành đầy đủ các bước để xác minh thông tin, kiểm tra năng lực chủ thể, ý chí tự nguyện,... của các bên; Đồng thời giá trị pháp lý của văn bản công chứng điện tử được xác định là tương đương văn bản giấy. Do đó việc thay đổi môi trường công chứng không làm giảm tính chặt chẽ của văn bản công chứng.

Việc có sự tham gia của công nghệ vào quá trình công chứng giúp giảm được nhiều chi phí, thời gian cho các chủ thể trong công chứng. Bên cạnh đó, hệ thống dữ liệu đang được tích hợp ngày càng nhiều và đầy đủ hơn, gắn định danh cá nhân với nhiều giấy tờ, người tiến hành công chứng, chứng thực tiến hành khai thác thông tin trên cơ sở dữ liệu quốc gia mà không cần yêu cầu người yêu cầu công chứng xuất trình bản gốc, bản chính hay nộp bản sao các giấy tờ[7].  Từ đó, nguy cơ giả mạo thông tin đối với các giấy tờ đã được tích hợp được giảm xuống mức tối thiểu, vừa tăng tính tiện lợi vừa tạo được lòng tin với người sử dụng dịch vụ công chứng, thủ tục hành chính tại các cơ quan.

3.  Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng điện tử

Theo quy định tại điều 401 BLDS 2015, có ba thời điểm để xác định hiệu lực của hợp đồng gồm: thời điểm giao kết, thời điểm mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc thời điểm mà pháp luật quy định. Ngoài ra, BLDS cũng quy định riêng về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho tài sản. Nếu các bên không có thỏa thuận khác, hợp đồng tặng cho phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản[8].

Trường hợp đối tượng của hợp đồng tặng cho là bất động sản thì thực hiện theo quy định tại điều 459 BLDS. Theo đó, trường hợp bất động sản phải đăng ký thì hiệu lực được xác định là thời điểm hoàn tất thủ tục đăng ký; nếu là bất động sản không phải đăng ký thì thực hiện như quy định chung, có hiệu lực từ thời điểm chuyển giao tài sản.

Để thống nhất với quy định về thời điểm có hiệu lực của BLDS, Luật Đất đai 2024 đã bãi bỏ quy định tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai 2013 về thời điểm có hiệu lực của việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho,... bất động sản.

Luật nhà ở năm 2023, sửa đổi bổ sung năm 2024 quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng điện tử với hai nhóm đối tượng: Đối tượng là giao dịch nhà ở phải công chứng,  thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm hoàn thành việc công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về công chứng, chứng thực[9]; Đối với đối tượng là giao dịch nhà ở không phải công chứng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là do các bên thỏa thuận; trường hợp các bên không có thỏa thuận thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm ký kết hợp đồng[10].

Bộ Công an đang lấy ý kiến cho dự thảo Nghị quyết về việc bỏ thủ tục công chứng và xác nhận tình trạng hôn nhân trong các giao dịch mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, phương tiện giao thông đối với các trường hợp đã được số hóa, làm sạch và kết nối liên thông dữ liệu[11]. Theo dự thảo này, người dân sẽ thao tác trên Cổng Dịch vụ công quốc gia để khai báo thông tin hợp đồng và yêu cầu đăng ký biến động, thông qua dữ liệu định danh mức 02 và tiến hành như các thủ tục hành chính khác trên môi trường điện tử. Tuy nhiên bất động sản là loại tài sản có giá trị lớn, thường đi kèm nhiều rủi ro, dễ tranh chấp nên nhiều chuyên gia và Luật sư cho rằng cần có cơ chế phù hợp, xác định chủ thể chịu trách nhiệm quản lý, chịu trách nhiệm. Đồng thời khẳng định tầm quan trọng của hoạt động công chứng và vai trò của công chứng viên trong việc xác minh hợp đồng, giao dịch. Dù cho công nghệ có hiện đại đến đâu cũng khó có thể thay thế được vai trò của con người, nhất là đối với hoạt động phức tạp như công chứng hợp đồng. giao dịch bất động sản.

Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ thời điểm được ký bằng chữ ký số của công chứng viên và chữ ký số của tổ chức hành nghề công chứng[12]. Quy định này có tính tương tự với thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng truyền thống, chỉ có sự khác biệt về môi trường công chứng dẫn đến sự khác biệt về hình thức chữ ký và con dấu điện tử của CCV và TCHNCC.

Nói một cách dễ hiểu hơn, văn bản công chứng điện tử có hiệu lực ngay tức khắc kể từ thời điểm hoàn tất thủ tục ký và đóng dấu điện tử. Có quan điểm cho rằng việc thay đổi hình thức xác nhận có thể dẫn đến độ trễ và sự khác biệt về thời điểm có hiệu lực so với hình thức truyền thống. Tuy nhiên do tính liên tục, liền mạch của quy trình công chứng, văn bản sau khi được ký xác nhận của các bên sẽ được chuyển giao ngay lập tức để hoàn thiện quy trình cuối cùng.

Đối với các giao dịch pháp luật yêu cầu phải công chứng, việc xác định thời điểm có hiệu lực có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong một số trường hợp khác, khi yêu cầu công chứng xuất phát từ mong muốn của các bên, việc công chứng sẽ có giá trị khẳng định lại một cách rõ ràng thời điểm phát sinh hiệu lực mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng, giao dịch thể hiện bằng văn bản, nội dung mà các bên đã thỏa thuận đúng pháp luật và có giá trị chứng cứ, không cần phải chứng minh[13] khi giải quyết tranh chấp xảy ra tại Tòa án.

Việc xác định hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng điện có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch, nhất là đối với các đối tượng trong giao dịch pháp luật yêu cầu phải công chứng.

Một là, việc xác định thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận, hiệu lực đối kháng với người thứ ba đóng vai trò là điểm khởi nguồn cho việc thực hiện các nội dung nêu trên, có quyền hủy bỏ khi có căn cứ hủy bỏ và đơn phương chấm dứt khi có căn cứ chứng minh bên còn lại vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ. Hai là, hậu quả pháp lý của việc xử lý vi phạm đối với hợp đồng có công chứng đã có hiệu lực pháp luật khác với hợp đồng bị vô hiệu. Ba là, kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng có hiệu lực, các bên sẽ bị ràng buộc bởi các nội dung đã thỏa thuận. Việc chấm dứt, thay đổi nội dung hợp đồng phải đảm bảo ý chí từ cả hai phía mà không thể tùy tiện thực hiện.

4.  Đánh giá về thực trạng về giá trị pháp lý và hiệu lực của văn bản công chứng, chất lượng đội ngũ công chứng viên tại Việt Nam hiện nay

Thích ứng với quy định của pháp luật và yêu cầu chuyển đổi, nhiều văn phòng công chứng trên cả nước đã tiến hành đăng ký chữ ký số có sử dụng dấu thời gian, trang bị hạ tầng thiết bị công nghệ hiện đại để phục vụ cho quy trình công chứng điện tử.

Tuy nhiên sau nhiều tháng kể từ ngày 01/7/2025 ( ngày Luật công chứng 2024 có hiệu lực), công chứng điện tử vẫn chưa nhận được sự đón nhận từ người dân, thậm chí không tiếp nhận được bất kỳ yêu cầu công chứng điện tử nào. Nguyên nhân của thực trạng này đến từ nhiều vấn đề như: i) Khách hàng chưa biết tới hoặc không lựa chọn vì quen với hình thức công chứng truyền thống, cảm thấy an tâm hơn khi tự mình nhận và quản lý giấy tờ bằng giấy, người dân còn băn khoăn về giá trị của văn bản công chứng điện tử; ii) Hệ thống liên thông dữ liệu về hộ tịch, đất đai,... chưa có tính đồng bộ, chia sẻ kịp thời giữa các cơ quan để phục vụ cho công chứng, giữa các văn phòng công chứng chưa có phần mềm sử dụng chung; iii) Các cơ quan tiếp nhận như cơ quan thuế, văn phòng đăng ký đất đai,... quen với cơ chế thủ tục cũ, khi thực hiện thủ tục sang tên nhà, đất, xe vẫn yêu cầu văn bản giấy[14]; iv) Hạ tầng công nghệ thông tin của nhiều văn phòng công chứng (nhất là ở địa phương) còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu về tốc độ, bảo mật và khả năng lưu trữ lâu dài[15].

Bên cạnh các yếu tố vật chất, cơ sở hạ tầng tác động đến hiệu quả của hoạt động công chứng điện tử, yếu tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng, là cơ sở then chốt trong việc hình thành hiệu lực và giá trị pháp lý của văn bản công chứng điện tử.

Công chứng viên được xác định là chủ thể trung gian, chứng nhận cho giao dịch được công chứng thông qua việc chứng nhận. Theo thống kê tính đến tháng 12 năm 2024, số lượng công chứng viên của cả nước là 3457 công chứng viên[16]. Ngoài ra số lượng này vẫn ko ngừng tăng lên, tuy nhiên chất lượng CCV là vấn đề đáng lo ngại.

Năng lực số của công chứng viên tại nhiều địa phương chưa thích ứng được với nghiệp vụ số, nhất là với bộ phận công chứng viên trước thời điểm luật Công chứng 2024 có hiệu lực. Cụ thể, chất lượng đội ngũ công chứng viên chưa đồng đều, còn có hiện tượng vi phạm pháp luật, đạo đức hành nghề; việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa tương xứng với sự phát triển các nhu cầu giao dịch trong hoạt động công chứng, chưa đáp ứng yêu cầu ngăn ngừa các hành vi lừa đảo, lợi dụng công chứng để hợp pháp hóa các giao dịch bất hợp pháp, gây mất trật tự an toàn xã hội[17]. Như đã trình bày ở trên, chất lượng công chứng viên không chỉ bao gồm điều kiện về thể chất, chuyên môn mà còn cần đảm bảo năng lực nghiệp vụ số để đáp ứng nhu cầu và sự phát triển của công chứng điện tử giao dịch.

5.  Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả trong hoạt động công chứng điện tử

Thứ nhất, bổ sung quy định về lời chứng của công chứng viên. Điều 48 Luật công chứng 2024 có sự kế thừa quy định tại điều 46 Luật công chứng 2014, theo đó “(...) Chứng nhận người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật,... Năng lực pháp luật dân sự là nền tảng cho  năng lực hành vi dân sự.

Một người không thể có năng lực hành vi dân sự mà không có năng lực pháp luật. Tuy nhiên quy định này của Luật Công chứng chưa thống nhất với quy định tại điều 117 BLDS 2015: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Để đảm bảo tính thống nhất giữa luật chung và luật chuyên ngành, tác giá kiến nghị sửa đổi bổ sung điểm c) khoản 1 điều 46 Luật Công chứng 2024 như sau: “Chứng nhận người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật, mục đích, nội dung của giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội;”.

Thứ hai, rà soát nghiêm ngặt và nâng cao tiêu chuẩn về điều kiện hành nghề và nghiệp vụ của công chứng viên. Hiện nay quy định tại Điều 10 Luật công chứng 2024 chủ yếu tập trung vào điều kiện về độ tuổi, điều kiện sức khỏe và trình độ. Xem xét điều kiện xã hội thực tế, khi nguồn lực công chứng viên ngày càng tăng về số lượng và việc đưa công chứng số vào thực hiện đòi hỏi CCV không chỉ đáp ứng các điều kiện trên mà còn cần nghiệp vụ số để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội.

Đồng thời, đây cũng là giải pháp then chốt trong kế hoạch phát triển hình thức công chứng điện tử, hướng đến tinh giản thủ tục, tiết kiệm thời gian, chi phí cho người dân và tổ chức hành nghề công chứng; tăng niềm tin của người dân vào hình thức công chứng điện tử.

Thứ ba, đẩy nhanh quá trình liên thông dữ liệu quốc gia, hiện nay với tiềm năng to lớn của ứng dụng VneID, nhiều loại giấy tờ và thủ tục hành chính đã được tích hợp. Tuy nhiên cơ sở để phục vụ đầy đủ cho công chứng điện tử chưa toàn diện dẫn đến nhiều khó khăn, bất cập, chưa thoát ly được quy trình truyền thống.

Thứ tư, cần tăng cường cơ chế bảo mật cho hệ thống công nghệ phục vụ công chứng. Các thông tin trong văn bản công chứng thường được người yêu cầu bảo mật tuyệt đối. Do đó, bất cứ nguy cơ nào về đánh cắp dữ liệu, can thiệp công nghệ để thay đổi nội dung, thời điểm công chứng,... đều gây nên những hậu quả khó lường.

Thứ năm, cần xác định và dự liệu các rủi ro và chủ thể chịu trách nhiệm trong các tình huống đó. Công chứng điện tử thực hiện trên môi trường số, công nghệ phát triển đi kèm với sự phát triển tinh vi, khó lường của tội phạm mạng. Hoạt động này yêu cầu thiết bị, mạng internet, chữ ký số,...do đó việc xảy ra sự cố kỹ thuật là không thể tránh khỏi.

Việc xác minh thường mất nhiều thời gian, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các chủ thể. Do đó, tác giả kiến nghị Bộ Tư pháp, Bộ Khoa học, Công nghệ, Chuyển đổi số và Truyền thông các cơ quan có liên quan cần có văn bản hướng dẫn, văn bản trả lời,... để giải quyết khúc mắc trên.

Thứ sáu, đề xuất ban hành quy trình nghiệp vụ chuẩn (SOP) cho môi trường điện tử, bổ sung quy định cụ thể về chuyển đổi hình thức văn bản công chứng điện tử và văn bản công chứng giấy; quy định về thẩm quyền chuyển đổi, mẫu lời chứng, cách thức sửa lỗi kỹ thuật văn bản, cách thức sửa đổi đối với giao dịch công chứng đã được chuyển đổi.

Thứ bảy, giá trị pháp lý của văn bản công chứng điện tử gắn bó mật thiết với chữ ký số. Do đó khung pháp lý về điều kiện đăng ký, sử dụng và công nhận còn mang tính khái quát, chung chung bộc lộ nhiều bất cập. Đề xuất Bộ Tư pháp và các cơ quan ban ngành ban hành văn bản hướng dẫn về cách thức và thông tin đăng ký chữ ký số của công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng với Sở Tư pháp.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội.

2. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2019), Bộ luật Lao động năm 2019, Nxb. Lao động, Hà Nội.

3. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2025), Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2025, Nxb. Lao động, Hà Nội.

4. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2024), Luật Công chứng năm 2024, Nxb. Lao động, Hà Nội.

5. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2023), Luật Nhà ở năm 2023, sửa đổi bổ sung năm 2024, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

6. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2025), Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2025.

7. https://media.chinhphu.vn/video/giay-to-da-duoc-tich-hop-tren-vneid-khong-can-xuat-trinh-ban-chinh-khi-chung-thuc-22071.htm

8. https://thanhtra.com.vn/hoan-thien-the-che-D4AD3DB96/nhung-kho-khan-trong-trien-khai-cong-chung-dien-tu-tai-tp-hcm-fd59c3689.html

9. https://vjst.vn/cong-chung-dien-tu-buoc-tien-phap-ly-con-nhieu-thach-thuc-76182.html

10. https://vneconomy.vn/so-luong-cong-chung-vien-o-viet-nam-ngay-cang-phat-trien-manh.htm

11. https://vpcp.chinhphu.vn/chinh-sach-phat-trien-nghe-cong-chung-11525064.htm

12. https://baochinhphu.vn/bo-cong-chung-khi-giao-dich-nha-dat-can-co-lo-trinh-de-tranh-rui-ro-102251020180005503.htm

 

[1] Khoản 1 Điều 62 Luật Công chứng năm 2024;

[2] Điểm c) khoản 2 Điều 57 Luật Nhà ở năm 2023, sửa đổi bổ sung năm 2024;

[3] Điểm d) khoản 4 Điều 18 Bộ luật lao động năm 2019;

[4] Khoản 2 điều 18 Luật Công chứng năm 2024;

[5] Khoản 2  Điều 68 Luật Công chứng năm 2024;

[6] Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2025;

[7] Chinhphu.vn, Giấy tờ đã được tích hợp trên VNeID không cần xuất trình bản chính khi chứng thực https://media.chinhphu.vn/video/giay-to-da-duoc-tich-hop-tren-vneid-khong-can-xuat-trinh-ban-chinh-khi-chung-thuc-22071.htm;

[8] Khoản 1 điều 458 Bộ luật Dân sự năm 2015;

[9] Khoản 1 điều 164 Luật nhà ở năm 2023, sửa đổi bổ sung năm 2024;

[10] Khoản 2 Điều 164 Luật nhà ở năm 2023, sửa đổi bổ sung năm 2024;

[11]Diệu Anh, “Bỏ công chứng khi giao dịch nhà đất: Cần có lộ trình để tránh rủi ro” https://baochinhphu.vn/bo-cong-chung-khi-giao-dich-nha-dat-can-co-lo-trinh-de-tranh-rui-ro-102251020180005503.htm;

[12] Khoản 2 điều 64 Luật công chứng năm 2024;

[13] Khoản 1 điều 92 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2025;

[14] Đình Thuyết, “Những khó khăn trong triển khai công chứng điện tử tại TP. HCM” https://thanhtra.com.vn/hoan-thien-the-che-D4AD3DB96/nhung-kho-khan-trong-trien-khai-cong-chung-dien-tu-tai-tp-hcm-fd59c3689.html;

[15] Ngọc Diệp, Đoàn Yến, “Công chứng điện tử: Bước tiến pháp lý còn nhiều thách thức” https://vjst.vn/cong-chung-dien-tu-buoc-tien-phap-ly-con-nhieu-thach-thuc-76182.html;

[16] Như Nguyệt, “Số lượng công chứng viên ở Việt Nam ngày càng phát triển mạnh” https://vneconomy.vn/so-luong-cong-chung-vien-o-viet-nam-ngay-cang-phat-trien-manh.htm;

[17] Chinhphu.vn, “Chính sách phát triển nghề công chứng” https://vpcp.chinhphu.vn/chinh-sach-phat-trien-nghe-cong-chung-11525064.htm.

NGUYỄN PHẠM THẢO TRANG

Các tin khác