Khoản 1 Điều 228 BLHS quy định: “Người nào lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất hoặc sử dụng đất trái với các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Theo quy định tại khoản 9 và khoản 31 Điều 3 Luật Đất đai, thì:
Lấn đất là việc người sử dụng đất chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất sử dụng mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc không được người sử dụng hợp pháp diện tích đất bị lấn đó cho phép.
Chiếm đất là việc sử dụng đất do Nhà nước đã quản lý mà chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc sử dụng đất của người sử dụng đất hợp pháp khác mà chưa được người đó cho phép.
Như vậy, hành vi lấn, chiếm đất của người phạm tội “Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai” đã xâm phạm tới quyền sử dụng đất hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác. Việc xác định tư cách tố tụng của người sử dụng đất hợp pháp có đất bị lấn, chiếm hiện có các quan điểm khác nhau như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, người sử dụng đất hợp pháp có đất bị lấn, chiếm là người bị hại. Bởi lẽ, hành vi xâm phạm tới quyền sử dụng đất đã trực tiếp gây (hoặc đe dọa gây ra) thiệt hại cho người có quyền sử dụng đất; và theo quy định tại Điều 62 BLTTHS, thì cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra thì được xác định là bị hại.
Quan điểm thứ hai cho rằng, người sử dụng đất hợp pháp có đất bị lấn, chiếm là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Bởi lẽ, mặc dù bị thiệt hại (hoặc bị đe dọa gây ra thiệt hại) do hành vi lấn, chiếm đất gây ra nhưng thực tế mảnh đất đó vẫn còn; thiệt hại xảy ra (nếu có) không phải là thiệt hại trực tiếp do hành vi phạm tội gây ra mà là thiệt hại gián tiếp do không sử dụng được diện tích bị lấn chiếm.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai vì các lý do nêu trên. Ngoài ra, nghiên cứu cấu thành tội “Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai” chúng ta thấy, khách thể trực tiếp của tội này là chế độ quản lý và bảo vệ đất đai của Nhà nước chứ không phải chế độ sở hữu; thiệt hại của người có đất bị lấn, chiếm không cũng không phải là tình tiết định tội hay định khung hình phạt.
Trên đây là vướng mắc trong việc xác định tư cách tố tụng của người bị lấn, chiếm đất trong xét xử vụ án “Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai”, tác giả rất mong nhận được ý kiến trao đổi từ quý độc giả và đồng nghiệp.
TRỊNH TRUNG KIÊN
Tòa án Quân sự Khu vực Quân khu 2