/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa: Những yếu tố tác động và vấn đề đặt ra

Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa: Những yếu tố tác động và vấn đề đặt ra

13/02/2024 08:09 |

(LSVN) - Bài viết tập trung nhận diện, phân tích, luận giải những yếu tố tác động đối với tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ các phương diện truyền thống lịch sử và hiện tại; làm rõ những yếu tố tác động tích cực cũng như lực cản và yêu cầu đặt ra đối với tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, cung cấp góc nhìn và chỉ ra những yêu cầu để tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam trên nền tảng hiện thực, tự giác và hiệu quả.`

Mở đầu

Qua thực tiễn tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thấy rõ sự cần thiết phải xây dựng và thực hiện quản lý Nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (NNPQXHCN) là một khâu trọng yếu trong đổi mới hệ thống chính trị, một mục tiêu chiến lược của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Kế thừa các kỳ Đại hội trước đây, Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam coi “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện NNPQXHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị” giai đoạn 2021-2030”(1).

 

Ảnh minh họa

Từ nhận thức lý luận, tiếp thu có chọn lọc các giá trị phổ biến của NNPQ nói chung và từ thực tiễn lãnh đạo quá trình xây dựng NNPQXHCN Việt Nam, thông qua các văn kiện Đại hội của Đảng có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của NNPQXHCN Việt Nam như sau: (i) NNPQXHCN là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về Nhân dân.

(ii) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. (iii) Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. (iv) Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật. (v) NNPQXHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Khái niệm NNPQ Việt Nam XHCN được hiểu bao gồm các yếu tố: quyền làm chủ của Nhân dân; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng, bảo vệ nhân quyền; quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đồng thời, sự khác biệt giữa quan niệm về NNPQ Việt Nam XHCN với nhận thức chung về NNPQ trên thế giới được thể hiện ở hai yếu tố cơ bản: quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung và chế độ chính trị XHCN.

Những tác động từ truyền thống   lịch   sử  Truyền thống là “tập hợp những tư tưởng và tình cảm, những thói quen trong tư duy, lối sống mà ứng xử của một cộng đồng nhất định được hình thành trong lịch sử và trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác… Truyền thống cũng được hiểu là những hiện tượng văn hoá - xã hội được bảo tồn trong đời sống xã hội và có thể được chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác… Tính cộng đồng, tính ổn định và tính lưu truyền là những đặc trưng, những thuộc tính của truyền thống”(2). Ngày nay, công cuộc xây dựng NNPQXHCN ở Việt Nam đang chịu những tác động vừa thuận lợi vừa thách thức của các truyền thống sau đây:

Truyền thống đề cao vai trò của đạo đức, tập quán và ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo

Từ ngàn xưa, văn hóa dân tộc Việt Nam là một bộ phận của văn hóa phương Đông, tính căn cước dân tộc và nền văn minh Việt Nam gắn liền với "căn cước" phương Đông với đặc trưng chung là sự hòa trộn giữa bản sắc riêng của dân tộc với đạo lý của Nho giáo. Xã hội phương Đông với kết cấu kinh tế là những công xã nông thôn bảo thủ và hệ tư tưởng Nho giáo đề cao lễ nghĩa, coi nhẹ luật pháp, trọng tình hơn lý... chiếm địa vị thống trị tư tưởng trong suốt thời kỳ phong kiến và tạo ra truyền thống cai trị bằng đức với chủ nghĩa duy tình (còn phương Tây là pháp quyền và duy lý). Tư tưởng tôn trọng gốc gác nơi đất mẹ thiên nhiên và cội nguồn huyết thống của người phương Đông đã dẫn đến một ý thức thuần phục gần như tuyệt đối đối với tôn ti trật tự đã được thiết lập trong chính trị và tôn giáo.

Một trong những nét nổi bật của tư tưởng chính trị phương Đông cổ đại là đặt các quy phạm đạo đức lên rất cao, coi đạo đức là cái căn bản chi phối sự vận hành các quan hệ xã hội - nhà nước và pháp luật(3). Và kết quả của sự dung hòa đạo Khổng với học thuyết thực tiễn pháp gia đã làm nổi bật địa vị đạo đức luân lý trong địa hạt pháp luật của phương Đông (ở đó những quy phạm pháp luật là những quy phạm luân lý Nho giáo, tín ngưỡng hay thuyết Mệnh trời). Đặc biệt, đường lối Đức trị của Khổng Tử thống trị trong xã hội phong kiến Á Đông hàng nghìn năm lịch sử đã ảnh hưởng sâu sắc đến kết cấu văn hóa, đặc tính tâm lý và luân lý của người Trung Quốc, đồng thời tạo nên một truyền thống lớn của văn hóa khu vực. Những ảnh hưởng lâu dài, thâm căn, bảo thủ của Nho gia đối với hành pháp, tư pháp và ngưng đọng trong tâm lý một số nước trong khu vực, trở thành thói quen nhận thức và tư duy pháp luật đặc trưng phương Đông. Nhìn chung, các quy định pháp luật được áp dụng chính thức vẫn chưa thấm được qua chiếc khiên của đạo Khổng.

Từ thế kỷ thứ X trở đi, Nho giáo có nguồn gốc Trung Hoa nhưng đã trở thành vũ khí để người Việt Nam chống lại sự xâm lược và đồng hóa, đồng thời nó cũng được các triều đại phong kiến Việt Nam sử dụng để tổ chức quản lý xã hội và xây dựng nhà nước độc lập, vì sự phát triển của dân tộc. Với bề dày lịch sử thâm căn, tư tưởng Nho giáo đã thấm sâu vào đời sống tinh thần và trở thành một bộ phận quan trọng của truyền thống văn hóa dân tộc. Hơn 1000 năm tồn tại và phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam là thực tế khẳng định tính hiệu quả những chuẩn mực của Nho giáo trong việc xác lập và duy trì kỷ cương xã hội. Cùng với bảo vệ quyền lực tuyệt đối của nhà vua và triều đình, các bộ luật phong kiến Việt Nam phản ánh rõ nét bản chất là công cụ bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị, bóc lột và đàn áp các giai cấp đối địch; được thể hiện ở nhiều quy định bất bình đẳng và bất công, như: bảo vệ những nguồn thu nhập và bóc lột của nhà nước, củng cố cơ sở kinh tế tập quyền, bộ máy quan liêu; đề cao quyền lực và thứ bậc xã hội; bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến, đặc quyền, đặc lợi của quan lại và tầng lớp quý tộc quan liêu; bảo vệ sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, quy định khắt khe đối với người phụ nữ…

Truyền thống pháp điển hóa, đề cao vai trò của pháp luật

Bước vào thời kỳ độc lập tự chủ (từ thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XIX), các nhà nước quân chủ phong kiến Việt Nam đã nhận thức được vai trò của luật pháp với tư cách là phương tiện hàng đầu để quản lý xã hội và đã đạt được những tiến bộ trong xây dựng, phát triển pháp luật. Hình thư (nhà Lý), Quốc triều điều luật (nhà Trần), Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức - nhà Lê) và Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long - nhà Nguyễn) là những thành tựu pháp luật tiêu biểu. Trong đó, Luật Hồng Đức là thành tựu có giá trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam, được thế giới ngày nay đánh giá cao, ngang tầm các bộ luật cổ điển ở phương Đông. Những bộ luật thời phong kiến đã cho thấy ở mức độ nhất định những giá trị kiến thức đáng khâm phục của người Việt Nam đối với việc quản lý xã hội, đó là những kinh nghiệm về sự kết hợp pháp trị với đức trị trong đạo trị quốc, an dân; mối quan hệ giữa pháp luật với phong tục, tập quán; về tổ chức hợp lý bộ máy nhà nước trung ương tập quyền đến cải cách hành chính ở địa phương; về thực hiện chế độ quan lại dựa trên nguyên tắc đề cao phẩm hạnh, đạo đức, chú trọng tài ba, trí tuệ, học vấn; về đấu tranh chống cơ chế hành chính quan liêu, duy trì kỷ cương và trật tự trị an xã hội, quản lý làng xã, xây dựng nền nếp gia đình… Trên các lĩnh vực đất đai, kinh tế, tài nguyên, con người, cha ông đã để lại những bài học quý về tinh thần trách nhiệm và nghệ thuật quản lý lãnh thổ, dân cư và dân số, bố trí các địa điểm sản xuất và buôn bán, thu thuế các loại, kiểm soát ngoại thương...

Điều đó cho thấy sự tiến bộ trong nhận thức của các nhà nước phong kiến (cụ thể là những người đứng đầu) về vai trò của pháp luật đối với việc quản lý, điều hành đất nước. Việc điều hành quản lý xã hội của người Việt cũng có những nét riêng (không phải lúc nào cũng chịu ảnh hưởng của Trung Quốc), đã để lại những di sản trong tổ chức và điều hành xã hội, từ điều hành bằng đạo đức đến điều hành bằng pháp luật.

 Cho dù có những hạn chế lịch sử, nhưng các nhà nước phong kiến đã để lại cho hậu thế một di sản pháp luật khá đồ sộ và có nhiều giá trị; thể hiện rõ nét, đậm đà bản sắc dân tộc và tính nhân dân, sự sáng tạo lớn của truyền thống lập pháp phong kiến Việt Nam từ phương diện hình thức cũng như nội dung. Dưới các triều đại tiến bộ, tư tưởng và truyền thống dân tộc được phản ánh trong hoạt động lập pháp của nhà nước và thể hiện qua một số chế định cụ thể. Nhiều điều luật từ các phương diện cụ thể đã phản ánh được tình hình đặc thù trong nước và thực tế xã hội Việt Nam. Phương pháp và trình độ lập pháp khá tiến bộ thể hiện qua hình thức của bộ luật được giới nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá cao với những yếu tố đặc sắc về kỹ thuật lập pháp từ cơ cấu bộ luật đến cách thể hiện về mặt hình thức, quy định rõ ràng, cụ thể từng hành vi, chế tài xử phạt. Các bộ luật được ban hành để phục vụ yêu cầu quản lý, điều hành quốc gia đã phát huy tác dụng trong xã hội đương thời. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật bao gồm những lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội của xã hội dân sự chứ không chỉ phát triển luật hình sự. Về nội dung, bộ luật thể hiện được các tính chất tiến bộ, duy lý, nhân đạo và truyền thống. Với những tư tưởng lập pháp rất gần với tư tưởng pháp luật hiện đại, đã khẳng định những giá trị to lớn của Quốc triều hình luật như là một phương tiện, công cụ hữu hiệu để nhà nước cai trị và quản lý xã hội. Nghiên cứu các pháp luật phong kiến Việt Nam, chúng ta có thể tham khảo, vận dụng một số kinh nghiệm về kỹ thuật lập pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đồng thời, qua chiều dài chế độ phong kiến, thực tiễn lịch sử dân tộc cũng xuất hiện các tư tưởng quản lý độc đáo Việt Nam. “Bất chấp các thiếu sót và tính phức tạp của nó, người Việt Nam hãnh diện cho rằng họ không những đã có pháp quyền trong thời cổ xưa mà còn có cả sự tôn trọng nhân quyền ở mức độ cao mà pháp quyền là cơ sở”(4). Vì vậy, cần xem xét một cách khách quan những di sản văn hóa của cha ông trong việc điều hành và quản lý xã hội, khắc phục những tàn dư tiêu cực bảo thủ, phát huy những nhân tố tích cực tiến bộ còn phù hợp là cần thiết.

Những hạn chế của tư duy quản lý truyền thống

Là quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam có nhiều nét tương đồng với nhiều nước trong khu vực với những giá trị tinh thần tượng trưng cho văn hóa phương Đông. Nhìn vào lịch sử hàng nghìn năm, nền văn hóa truyền thống của người Việt Nam trên những mặt căn bản đức trị và pháp trị đã hình thành một hằng số văn hóa được bản sắc hóa trên tập hợp các yếu tố: đề cao lợi ích, ý thức trách nhiệm và sự tu dưỡng đạo đức cá nhân; hòa quyện lợi ích cá nhân và tập thể, coi trọng lợi ích lâu dài, phúc lợi và công bằng xã hội; phát huy tinh thần cộng đồng làng xã, dân tộc… Tuy nhiên, truyền thống luôn hàm chứa cả mặt tích cực và tiêu cực đối với sự phát triển hiện tại bởi lẽ: truyền thống đem theo cả di sản lẫn di căn. Truyền thống coi tục lệ (các định chế phi quan phương) là luật còn luật pháp của nhà nước là cái đối lập với mình để tìm mọi cách lẩn tránh hoặc chống đối đã được hình thành trong thời kỳ Bắc thuộc. Các chính quyền độc lập sau này khi xây dựng pháp luật đã lường tính khả năng để pháp luật được dân chúng tôn trọng và thi hành thì phải luôn chú ý tới tính chất dung hòa giữa luật và tục. Đưa tục lệ vào pháp luật chính thống với các định chế phi quan phương là một đặc điểm quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Một vấn đề nổi lên là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng: trong truyền thống do lịch sử để lại, quan hệ và lợi ích cộng đồng mang tính chi phối và bao trùm tất cả. Cá nhân chỉ được tôn trọng và bảo vệ khi tự ghép mình trong cộng đồng, tuân thủ nghiêm ngặt luật tục với nhiều đẳng cấp và cấp độ cộng đồng chồng xếp lên nhau. Con người cá nhân chưa bao giờ được coi là thực thể độc lập với quyền tồn tại và phát triển nhân cách của mình. Do sự phát triển của nhà nước và pháp luật phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn của Nho giáo, nên không phải pháp luật mà là đạo đức và phong tục, tập quán đóng vai trò thống trị trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Qua các chế độ phong kiến, thực dân, nhân dân lao động là người thực thi pháp luật nhưng chưa phải là tác giả của luật pháp; luật pháp cũ chỉ có lợi cho thực dân phong kiến. Mặt khác, tính cộng đồng (họ hàng, làng xóm, nghề nghiệp...) cũng thường tạo nên cách xử lý nặng về tình và nhẹ về lý (truyền thống đặt lý thấp hơn tình) cũng như pháp luật phong kiến (và cả pháp luật tư sản sau này) cho phép dựa vào đạo đức để che giấu bản chất giai cấp. Tư tưởng tôn ti, trật tự xã hội đẳng cấp nặng nề, phi dân chủ, thiếu pháp luật và pháp luật chưa nghiêm... là những khuyết tật phổ biến, hạn chế lớn đã và đang in đậm trong tâm lý, thói quen và cách nghĩ, cách làm người Việt Nam cũng như triết lý “có lý, có tình” như một tổng kết trong quản lý có lúc, có nơi không thể không mẫu thuẫn với pháp chế, với lý tính. Tâm lý dân tộc từ ngàn năm nay gây không ít khó khăn để hình thành và phát triển một tinh thần pháp quyền trong xã hội. “Ở xã hội ta, cá nhân chìm đắm ở trong gia tộc cho nên nhất thiết các luân lý đạo đức, chế độ văn vật, chính trị và pháp luật đều lấy gia tộc chủ nghĩa làm gốc”(5). “Có thể dễ dàng nhận thấy sự thiếu hụt trong lịch sử hệ thống chính trị Việt Nam là tính chất pháp quyền của bộ máy nhà nước. Chúng ta chưa từng có một xã hội công dân trong lịch sử”(6). Mặt khác, bên cạnh những ưu trội của tính cách Việt Nam như thông minh, cần cù, sáng tạo, tinh thần tự tôn dân tộc và cởi mở, hòa hợp, hữu nghị,... cũng bộc lộ những hạn chế, sở đoản như tính thiếu kế hoạch, chắp vá, đôi khi tùy tiện, thiếu tổ chức kỷ luật, chưa có tâm lý tôn trọng pháp luật. “Tính đến nay, ba hằng số lớn của lịch sử dân tộc: kinh tế nông nghiệp, cư dân nông dân, xã hội nông thôn vẫn là những chỉ số quan trọng để nhận diện người Việt Nam. Trên nền tảng hiện thực của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tư tưởng tiểu nông là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất nhỏ phân tán, manh mún, tùy tiện, thiếu kỷ luật. Cơ sở kinh tế riêng lẻ và ý thức tư tưởng phong kiến không cho phép quần chúng lao động, nhất là nông dân một lối suy nghĩ độc lập, đường lối chính trị riêng, tiến bộ. Những tập quán và thói quen sản xuất hàng hóa đã không chiếm được chỗ đáng tin cậy trong nếp nghĩ và hành động của người nông dân. Do đó, những căn tính nông dân, những đặc trưng của một xã hội nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến tất cả mọi truyền thống Việt Nam”(7). Ngày nay, các tàn dư tư tưởng và lề thói phong kiến tiểu nông vẫn tồn tại, đặc biệt là hai căn bệnh gia trưởng và thói tự do vô kỷ luật đã và đang cản trở quá trình đi lên sản xuất lớn, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng NNPQXHCN.

Những tác động của bối cảnh hiện tại

Sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước (1986- 2022), Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sự nghiệp xây dựng NNPQXHCN cũng đòi hỏi Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm khắc phục một số tồn tại trong quản lý xã hội để xóa bỏ những lực cản trong tiến trình xây dựng, phát triển đất nước.

 Bước chuyển đổi cách mạng về cơ chế quản lý xã hội trong tiến trình đổi mới

Trên phương diện quản lý kinh tế, đổi mới là quá trình chuyển đổi từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; từ nền kinh tế hiện vật tự cung tự cấp, khép kín sang nền kinh tế mở với sự thâm nhập của công nghệ hiện đại ngày càng tăng; từ chỗ Nhà nước độc quyền quản lý sang kết hợp giữa Nhà nước và thị trường. Cùng với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta cũng coi trọng và từng bước đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ, phù hợp và tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều quyết định cải cách trên lĩnh vực xây dựng nhà nước và pháp luật làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị và hoạt động của bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Chúng ta cũng thực hiện có kết quả một số cải cách quan trọng nhằm đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị theo hướng phân định rõ chức năng và giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước - Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đổi mới và chỉnh đốn Đảng, từng bước làm rõ nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền để củng cố và nâng cao chất lượng, hiệu quả “sự lãnh đạo chính trị của giai cấp vô sản”. Xây dựng NNPQXHCN được đẩy mạnh, hiệu lực hiệu quả hoạt động được nâng lên. Việc đổi mới, kiện toàn phương thức hoạt động của cơ quan nhà nước được triển khai theo hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nhà nước. Cải cách tư pháp được triển khai chủ động và tích cực, đạt được kết quả bước đầu quan trọng. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được quan tâm chỉ đạo, triển khai tích cực các nhiệm vụ, giải pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, góp phần hạn chế các vụ việc mới phát sinh; chỉ đạo giải quyết về cơ bản các vụ việc tồn đọng. Nhà nước cũng có nhiều chủ trương, giải pháp, văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện cơ chế và đổi mới công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc từng bước được hiện thực hóa.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN cần phải đề cao pháp luật, kỷ cương để bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất từ một khung pháp lý hoàn thiện, duy trì được sự hợp tác trong cạnh tranh, bảo đảm nền kinh tế phát triển đúng định hướng và yêu cầu quản lý xã hội. Trong quá trình đổi mới, tư tưởng dùng pháp luật để quản lý xã hội, quản lý nhà nước được khẳng định và đề cao; vai trò của pháp luật được ghi nhận: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN. Quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”(8). Nhà nước đã ban hành các hiến pháp (Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001; Hiến pháp năm 2013 và nhiều luật thể chế hóa đường lối của Đảng, tạo khuôn khổ pháp lý và thúc đẩy quá trình đổi mới. Hệ thống pháp luật từng bước được xây dựng, hoàn thiện, góp phần quan trọng vào việc phát triển, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đổi mới hệ thống chính trị và tạo môi trường pháp lý cho hội nhập quốc tế. Trên các lĩnh vực: tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, kinh tế, xã hội; giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ; văn hóa; hợp tác quốc tế; an ninh quốc phòng; trật tự an toàn xã hội; hành chính; tư pháp hình sự,... pháp luật đều có những đổi mới tích cực theo hướng đáp ứng các yêu cầu của xây dựng NNPQXHCN. Môi trường pháp lý cho phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của các chủ thể kinh tế, các cơ chế khuyến khích và bảo đảm đầu tư, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội được xác lập về mặt pháp lý. Nhiều quy định điều chỉnh các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động, thương mại và hoạt động của các doanh nghiệp nhằm giảm thiểu sự can thiệp của các cơ quan nhà nước bằng các biện pháp hành chính và cơ chế xin - cho; chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương được xóa bỏ; nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh từng bước được xác lập. Nhà nước cũng đã ký kết, gia nhập nhiều điều ước quốc tế phục vụ chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế. Trong quá trình lãnh đạo đổi mới toàn diện đất nước, Đảng và Nhà nước ta ngày càng thấy rõ: để có CNXH phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội; chủ động hội nhập quốc tế... Nhà nước Việt Nam đã quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật và đang từng bước sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Một số tồn tại trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý

Trong những năm đầu đổi mới, việc quản lý xã hội trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa được quan tâm thích đáng, còn nhiều vấn đề kinh tế - xã hội tồn tại từ lâu và mới nảy sinh cần được giải quyết tích cực và hiệu quả. “Nguyên nhân của nhiều vấn đề nhức nhối hiện nay không chỉ do kinh tế kém phát triển, mà còn do chúng ta buông lỏng lãnh đạo và quản lý, chưa quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội” (9). Xây dựng NNPQXHCN chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước. Trong bước ngoặt chuyển đổi, cơ chế quản lý xã hội mới đang hình thành, phát triển nhưng chưa hoàn thiện. Hệ thống quản lý hành chính, trật tự và đạo đức xã hội, xây dựng nền dân chủ và phát huy sức sáng tạo trong nhân dân còn nhiều tồn tại, hạn chế. Hệ thống chính sách, pháp luật, các công cụ quản lý chưa đạt hiệu quả cao. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước chưa ngang tầm, chưa phát huy hết năng lực quản lý và hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nhiều khâu trung gian trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ; bất cập về trình độ, năng lực quản lý, kiến thức nghề nghiệp. Tổ chức và hoạt động còn nặng nề, chưa phân định tốt trách nhiệm, quyền hạn, sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan quyền lực; chưa bảo đảm tính độc lập tương đối của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; mối quan hệ phân cấp giữa trung ương và địa phương còn một số mặt chưa cụ thể. Quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực: đầu tư, giao thông, môi trường, đất đai, kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo còn nhiều hạn chế và có phần bị buông lỏng, chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới; chưa phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Mặc dù có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của hệ thống hành pháp còn nhiều nhược điểm, nhiều mặt chưa đáp ứng và theo kịp yêu cầu phát triển của đất nước. Bộ máy nhà nước chưa thật sự trong sạch, vững mạnh; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn, hiệu lực quản lý điều hành chưa nghiêm; kỷ cương xã hội bị buông lỏng có khả năng làm lu mờ bản chất tốt đẹp của chế độ, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Mục tiêu xây dựng hệ thống chính trị trên cơ sở vừa củng cố vừa đổi mới để phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực của nhân dân lao động trong hiện thực còn nhiều hạn chế, bất cập. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ, vấn đề trật tự và kỷ luật đang là mặt yếu kém của hệ thống chính trị Việt Nam.

Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, hiệu quả quản lý chưa cao Xây dựng NNPQ đòi hỏi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh trên các lĩnh vực cơ bản của cuộc sống làm tiền đề để quản lý xã hội bằng pháp luật. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất; tính công khai, minh bạch còn hạn chế, tính khả thi thấp. Nội dung của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ, môi trường, an ninh - quốc phòng, đối ngoại còn chưa chứa đựng đầy đủ các yếu tố “phát triển bền vững”. Nhìn chung, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam vẫn trong giai đoạn đầu, còn phải tiếp tục và thường xuyên hoàn thiện để pháp luật đáp ứng được sự phát triển của đời sống xã hội và nhu cầu tăng cường quản lý nhà nước. Nhiều lĩnh vực bức xúc của đời sống xã hội vẫn chưa có luật mà điều chỉnh chủ yếu bằng văn bản dưới luật, thậm chí chưa có văn bản dưới luật điều chỉnh. Hệ thống pháp luật vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống, chưa theo kịp và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, còn tình trạng vừa thiếu dân chủ vừa lỏng lẻo kỷ cương: vẫn có nơi, có lúc có biểu hiện coi thường pháp luật; một bộ phận những người có trách nhiệm giữ gìn pháp luật lại vi phạm pháp luật. Tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều thủ đoạn phạm tội mới tinh vi và cuộc đấu tranh chống vi phạm pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. Hiệu lực của pháp luật chưa được phát huy đầy đủ, hiệu quả trên các lĩnh vực quản lý. Quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước còn bộc lộ không ít khuyết điểm, yếu kém; chưa ngang tầm với nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới và chưa đáp ứng yêu cầu hiện tại. Pháp luật chưa khẳng định mạnh mẽ vai trò là công cụ đắc lực của Nhà nước để quản lý xã hội, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân và đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật đang.

Tác động mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế

Ngoài những hạn chế nêu trên, công cuộc đổi mới còn gặp những lực cản khách quan lớn, như: mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường, tệ quan liêu và tham nhũng trong hệ thống chính trị, những ảnh hưởng tàn dư của tư tưởng phong kiến, tư sản. Bên cạnh các thành tựu chủ yếu và những tác động tích cực như: góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội, làm cho đời sống nhân dân đỡ khó khăn, mở hướng đi lên tốt đẹp hơn...; kinh tế thị trường cũng hàm chứa cả những mặt tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội, là nơi phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, tác động không nhỏ đến sự biến đổi của đạo đức theo chiều hướng xấu. Cơ chế thị trường đề cao giá trị của đồng tiền đã tác động mạnh đến các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đạo đức của xã hội. Thực tế cho thấy có nhiều mâu thuẫn giữa phát triển vật chất và suy thoái tinh thần, giữa kinh tế và đạo đức văn hóa xã hội. “Nguyên tắc tối đa hóa lợi ích cá nhân”, chủ nghĩa tôn thờ vật chất, kinh tế thị trường đã và đang đẩy con người vào “vòng xoáy” của lợi nhuận, nảy sinh lối tư duy thực dụng, “kích thích” tính phi đạo lý, kiểu làm ăn gian dối, bất chấp dư luận xã hội, chà đạp lên luân lý, luật pháp, làm sai lệch các chuẩn mực đạo đức và làm đảo lộn bậc thang giá trị xã hội. Đồng thời, trong quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng hợp tác và giao lưu văn hóa với các nước, Việt Nam tiếp thu được nhiều thành tựu văn minh nhân loại, làm phong phú nền văn hóa dân tộc; song cũng bị ảnh hưởng của sự du nhập ngoại lai không lành mạnh, tạo ra những tác động tiêu cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít người, trong đó có cả cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ. Đây là yếu tố góp phần gia tăng các tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật, là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội.

Những vấn đề đặt ra

(1)Sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN đang đặt ra cho Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam nhiệm vụ trực tiếp là xây dựng NNPQXHCN “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” với tư cách là phương thức tổ chức nền chính trị nhằm duy trì bản chất giai cấp công nhân, phát huy dân chủ XHCN, làm cho Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Việc xây dựng và hoàn thiện NNPQXHCN được đặt ra như một mục tiêu, nhiệm vụ có tính tất yếu trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ về phương pháp và tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước theo hướng dân chủ, hài hòa và bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trọng tâm của đổi mới tư duy pháp lý trong thời kỳ đổi mới chính là yêu cầu nâng cao vai trò điều chỉnh xã hội của pháp luật, pháp luật phải là một “phương tiện hùng mạnh” để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, là công cụ đấu tranh chống tiêu cực và bảo vệ nền dân chủ XHCN.

(2) Nhà nước pháp quyền XHCN có nguồn gốc sâu xa từ các quan điểm trong lịch sử về NNPQ, nhưng do xuất phát từ đặc điểm, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể nên xây dựng NNPQXHCN Việt Nam không có nghĩa là “bê nguyên” những quan điểm và mô hình đã sẵn có mà phải trên cơ sở kế thừa có phê phán và phát triển sáng tạo trong điều kiện mới. Do được xây dựng trên một cơ sở lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội và giai cấp khác với các hình thái kinh tế trước đây nên NNPQXHCN có những đặc trưng riêng so với các NNPQ trong các hình thái kinh tế - xã hội khác. Mặt khác, nhà nước bao giờ cũng được xây dựng trên những cơ sở lịch sử, kinh tế, văn hóa, truyền thống của một xã hội nhất định, trong đó yếu tố văn hóa, truyền thống có những tác động không nhỏ đến việc xây dựng nhà nước. Sự phát triển của mỗi quốc gia đều có những đặc trưng mang tính chất dân tộc cũng như lịch sử của mình và thành công của quản lý xã hội của mỗi quốc gia không thể không gắn với việc kế thừa, thích nghi truyền thống văn hóa, tinh hoa và đặc điểm dân tộc. Việc xây dựng NNPQXHCN cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu thiết kế phù hợp với đặc điểm, truyền thống dân tộc và trình độ phát triển của xã hội.

(3)Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc nên nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, là đất nước đã trải qua hàng ngàn năm chế độ phong kiến, gần 100 năm dưới chế độ thuộc địa, lại tập trung vào cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và đang trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, vì vậy, tư tưởng phong kiến còn ảnh hưởng rất sâu đậm trong xã hội cũng như nhận thức, kinh nghiệm xây dựng hệ thống pháp luật và quản lý xã hội theo pháp luật của Việt Nam còn nhiều yếu kém. Một đặc điểm quan trọng trong điều hành xã hội ở Việt Nam là sự tồn tại song hành trên thực tế một dạng thức kép giữa những nguyên tắc quản lý xã hội được ghi thành văn bản với những nguyên tắc được quy ước và công nhận không thành văn bản. Các chuẩn mực về hoạt động và hành vi của con người không phải chỉ được quy định trong pháp luật mà còn trong rất nhiều quy ước, thông lệ, tập tục, tập quán, đạo đức, giáo lý... Vai trò của luật pháp trong nhiều trường hợp lại không phải là chủ yếu… Ngoài ra, sự mở rộng vai trò tự trị, tự quản của các vùng và các địa phương đối với chính quyền trung ương là một trong những nét đặc biệt trong việc tổ chức và điều hành xã hội trong xã hội Việt Nam truyền thống. Bên cạnh luật lệ do địa phương làng xã đặt ra và được ghi chép trong hương ước, con người với tư cách cá nhân còn bị ràng buộc bởi những phong tục, tập quán, lề thói khá nặng nề. Hành vi, cử chỉ của con người thường gắn bó chặt chẽ với những thang bảng của giá trị đạo đức xã hội hơn là với luật lệ. Trên thực tế, người dân tôn trọng đạo đức hơn tôn trọng pháp luật.

(4) Xây dựng NNPQ trên cơ sở của văn hóa phương Đông, văn hóa dân tộc Việt Nam nên phải vừa kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhân loại đồng thời phải chú ý đến đặc điểm riêng của dân tộc - những giá trị cơ bản truyền thống, giữ vai trò rất lớn trong việc quyết định đối với xây dựng NNPQXHCN. Một vấn đề nổi lên là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng: trong truyền thống do lịch sử để lại, quan hệ và lợi ích cộng đồng mang tính chi phối và bao trùm tất cả.

Là một trong những nguồn gốc tư tưởng Việt Nam, có mặt từ rất sớm trong sự phát triển chung của dân tộc; Nho giáo có vai trò nổi bật là chức năng công cụ quyền lực, đường lối trị nước của mọi triều đại và là dòng tư tưởng xuyên suốt lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam thời phong kiến. Là hai nước láng giềng, từ rất sớm Việt Nam và Trung Quốc đã hình thành những mối quan hệ giao lưu gần gũi trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa - tư tưởng. Điều kiện khách quan đó đã tạo tiền đề thuận lợi cho sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam và phát huy ảnh hưởng trong lịch sử. Là vũ khí tinh thần của chế độ phong kiến, Nho giáo đã được tôn vinh và đề cao trong lịch sử; được sự cổ vũ của giai cấp thống trị, các thế hệ Nho gia đã không ngừng tìm tòi nghiên cứu Nho giáo và để lại nhiều công trình về đề tài này. Ngày nay, tuy đã lỗi thời, song với lịch sử hàng ngàn năm phát triển của mình, Nho giáo vẫn để lại những dấu ấn, ảnh hưởng sâu sắc trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta. Bên cạnh những mặt tích cực nhất định, Nho giáo cũng để lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực, đã và đang trở thành lực cản quá trình phát triển của đất nước nói chung và trong công cuộc đổi mới. Vì vậy, nghiên cứu, đánh giá vai trò, vị trí của Nho giáo trong lịch sử và hiện tại để xác định thái độ và cách ứng xử phù hợp với hệ tư tưởng này đang được đặt ra như một nhu cầu cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

(5)Qua việc tìm hiểu những yếu tố tác động, bài viết hy vọng đem đến cách nhìn về tiến trình xây dựng NNPQ Việt Nam trên nền tảng hiện thực, để xác định những bước đi thực tế và sát hợp với Việt Nam, đặc biệt cần đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng (giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội). Với ý nghĩa là quá trình cải tạo thực tiễn sâu sắc, tiến trình xây dựng NNPQXHCN Việt Nam vừa phải chống bảo thủ, trì trệ vừa phải tránh tư duy nóng vội, đơn giản chủ quan; đồng thời cũng đặt ra yêu cầu phải được nghiên cứu thiết kế phù hợp với đặc điểm, truyền thống dân tộc và trình độ phát triển của xã hội (cần quán triệt nguyên tắc lịch sử cụ thể). Đặc biệt, cần xem xét một cách khách quan những di sản văn hóa của cha ông trong việc điều hành và quản lý xã hội; gắn với việc bảo tồn, phát huy các giá trị và bản sắc văn hóa dân tộc, kết hợp truyền thống - hiện đại trên tinh thần xây dựng và cải tạo, gạn lọc kế thừa và phát huy trên tinh thần đổi mới; khắc phục những lực cản về tư tưởng, tâm lý, tập quán thói quen của quá khứ đối với sự phát triển, phù hợp yêu cầu của đất nước và thời đại để tạo nên sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn trong quản lý xã hội, góp phần đẩy nhanh tiến trình xây dựng NNPQXHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, 2021, Hà Nội, tr.174.

(2)Phan Huy Lê, Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, Báo cáo đề tài KX 07-02, Phần mở đầu.

(3)Đại học Quốc gia Hà Nội (Trường Đại học KHXH&NV- Khoa Luật), Giáo trình Lịch sử các học thuyết chính trị, tr.13-14.

(4) Tạ Văn Tài, Pháp quyền trong pháp luật truyền thống của Việt Nam và Trung Quốc cổ, Việt Nam học - Kỷ yếu hội thảo lần thứ nhất, 1998, tr.636.

(5) Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002, tr.382.

(6)Vũ Minh Giang, Lịch sử Việt Nam - truyền thống và hiện đại, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2009, tr.83.

(7)Vũ Minh Giang, sđd, tr.14.

(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.45.

(9)Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (khóa VII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

PGS.TS ĐỖ ĐỨC MINH 

Định hướng vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam

Nguyễn Hoàng Lâm