Ảnh minh họa.
Tình trạng xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm (bạo lực) đối với phụ nữ, trẻ em là vấn đề được đặc biệt quan tâm ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, tình trạng bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em thời gian gần đây có diễn biến rất phức tạp và ngày càng nghiêm trọng. Đối tượng xâm hại gồm cả những người thân thiết, ruột thịt của người bị hại, xâm phạm nghiêm trọng tới quyền con người, làm tổn thương nặng nề đến thể chất và tinh thần của phụ nữ, trẻ em; gây bất an cho các gia đình nạn nhân và bức xúc trong dư luận xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến thuần phong, mỹ tục, nếp sống văn hóa, làm suy đồi về đạo đức lối sống, gây mất trật tự an toàn xã hội. Để bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự đúng quy định pháp luật, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm, cùng với việc tăng cường công tác kiểm sát điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra thì hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa cũng giữ một vai trò cực kỳ quan trọng.
Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về các tội xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em
Yêu cầu đối với Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố trước khi tham gia phiên tòa là phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, nắm chắc nội dung vụ án, các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, nắm vững đặc điểm nhân thân của bị cáo, dự kiến các luận cứ của những người tham gia tố tụng trình bày tại phiên tòa, dự kiến các tình huống phải tranh luận để xây dựng kế hoạch, đề cương xét hỏi, tranh luận, thực hiện việc buộc tội bị cáo.
Đề cương xét hỏi dựa trên bản tổng hợp chứng cứ, đặt ra tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, chuẩn bị những luận cứ, luận chứng đối đáp với bị cáo, luật sư, những người tham gia tố tụng khác để khẳng định và bảo vệ quan điểm truy tố trong cáo trạng của viện kiểm sát. Kế hoạch xét hỏi cần tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản như: có vụ án xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm phụ nữ, trẻ em xảy ra; nơi, thời điểm xảy ra; người thực hiện các hành vi xâm hại; ý thức chủ quan của người phạm tội; thủ đoạn phạm tội là gì; hậu quả (về thể chất, tinh thần) do hành vi phạm tội gây ra cho bị hại. Kế hoạch xét hỏi dự kiến cả những vấn đề, những tình tiết còn mâu thuẫn trong tài liệu, chứng cứ vụ án, việc đối chất tại phiên tòa để làm rõ các mâu thuẫn cũng như việc công bố các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Những vấn đề, tình huống cần dự kiến như: thái độ tâm lý của bị cáo, khả năng phản cung của bị cáo, khả năng thay đổi lời khai của những người tham gia tố tụng; những vấn đề cần tranh tụng tại phiên tòa; tài liệu, chứng cứ đưa ra để đấu tranh với bị cáo, trích lục lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, đối chất tại phiên tòa; những vấn đề mà người bào chữa, bị cáo có khả năng đưa ra tại phiên tòa.
Để bảo đảm tranh luận tại phiên tòa đạt chất lượng tốt, đòi hỏi Kiểm sát viên phải nắm vững và đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện, phải coi trọng cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, phải kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố.
Kiểm sát viên dự thảo bản luận tội theo mẫu chung, nhưng tùy từng vụ án về các tội xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em khác nhau để xây dựng dự thảo luận tội có tính thuyết phục. Dự thảo luận tội phải phân tích, đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện, có căn cứ; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm xâm hại phụ nữ, trẻ em (dựa vào hành vi phạm tội, các đặc điểm về nhân thân, đối tượng, điều kiện, yêu cầu chăm sóc, bảo vệ người bị hại... để phân tích); hậu quả do tội phạm gây ra về thể chất, tinh thần (dựa vào khách thể là sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em bị xâm hại để phân tích); vai trò, trách nhiệm của từng bị cáo, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nguyên nhân, điều kiện phạm tội; đề xuất áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp, bồi thường thiệt hại. Những lý lẽ, lập luận để bác bỏ những quan điểm sai trái, không đúng của bị cáo, người bào chữa trên cơ sở viện dẫn chứng cứ để chứng minh, bảo vệ quan điểm truy tố của viện kiểm sát.
Tại phiên tòa, theo quy định tại Điều 307 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về trình tự xét hỏi thì khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước, sau đó quyết định để thẩm phán, hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Việc ai hỏi trước, ai hỏi sau là do chủ tọa phiên tòa điều hành việc xét hỏi quyết định cho hợp lý, phù hợp với từng vụ án và diễn biến cụ thể tại các phiên tòa xét xử. Do vậy, Kiểm sát viên cần chủ động việc xét hỏi tại phiên tòa khi chủ tọa phiên tòa yêu cầu xét hỏi. Khi được xét hỏi, Kiểm sát viên hoàn toàn có quyền hỏi ai trước, ai sau theo chủ ý của mình mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ tọa phiên tòa. Để bảo vệ cáo trạng truy tố bị cáo về hành vi xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em thì Kiểm sát viên phải hỏi về toàn bộ vụ án (trên cơ sở những vấn đề, tình huống đã được dự kiến, chuẩn bị trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) để có cơ sở đề xuất trong phần luận tội về tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp. Kiểm sát viên phải bảo đảm tất cả chứng cứ, tài liệu, đồ vật có trong hồ sơ vụ án, như: biên bản nhận dạng (bị hại và người làm chứng nhận dạng chính xác bị cáo); biên bản đối chất (giữa bị hại với bị cáo, giữa người làm chứng với bị cáo, giữa bị hại với người làm chứng); biên bản xác định địa điểm thực hiện hành vi phạm tội; bản ảnh hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra (diễn lại hành vi, lập bản ảnh xác định vị trí xảy ra hành vi phạm tội) và nhiều chứng cứ, tài liệu khác đều phải được thẩm tra công khai tại phiên tòa, không bỏ sót chứng cứ, tài liệu, đồ vật nào.
Khi xét hỏi, Kiểm sát viên phải hướng đến các chứng cứ, tài liệu, đồ vật nêu trên được thu thập đúng trình tự, thủ tục theo quy định của tố tụng hình sự; không có dấu hiệu mớm cung hay dụ cung (dẫn dắt lời khai) của bất kỳ ai đối với bị hại và người làm chứng, giữa gia đình của bị hại và gia đình người làm chứng không có mâu thuẫn với bị cáo.
Tùy từng đối tượng và thái độ của người được hỏi mà Kiểm sát viên có cách xét hỏi cho phù hợp. Việc xét hỏi bị cáo, bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi tại phiên tòa được tiến hành phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển của họ. Kiểm sát viên đặt câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, đơn giản, nếu thấy họ chưa hiểu câu hỏi thì cần nhắc lại và có thể giải thích cho rõ hơn; không được tỏ thái độ gay gắt mà phải làm cho những người được xét hỏi bình tĩnh trả lời đúng câu hỏi. Kiểm sát viên kết hợp xét hỏi đại diện gia đình, nhà trường để xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội, động cơ, mục đích, hoàn cảnh phạm tội nếu trong vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi, trên cơ sở đó đề nghị hội đồng xét xử áp dụng các biện pháp xử lý cho phù hợp.
Đối với những người tham gia tố tụng có vai trò làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án như người làm chứng, người giám định thì Kiểm sát viên có thể hỏi trực diện vào vấn đề cần làm rõ. Nếu quá trình điều tra, truy tố hoặc tại phiên tòa, người tham gia tố tụng có biểu hiện không trung thực, không thành khẩn khai báo hoặc phản cung, thì Kiểm sát viên có thể không hỏi trực diện mà phải hỏi có tính chất “vòng quanh”. Khi hỏi “vòng quanh”, Kiểm sát viên phải chú ý lắng nghe, ghi chép nhanh và nhanh chóng tìm ra sự mâu thuẫn trong những câu trả lời, từ đó tranh luận trở lại để bác bỏ những nội dung không xác đáng, không logic với các tình tiết khác của vụ án.
Kiểm sát viên tiến hành xét hỏi người bị hại là phụ nữ, trẻ em phải phù hợp với giới tính, lứa tuổi, mức độ phát triển của họ. Khi người bị hại trình bày, Kiểm sát viên cũng phải chú ý lắng nghe, ghi chép đầy đủ những lời khai, lời trình bày, những đề nghị, yêu cầu của họ. Sau đó có thể hỏi thêm họ về những điểm mà họ trình bày chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn, nhưng chủ yếu là hỏi họ về những nội dung, những tình tiết liên quan đến vụ án, liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ như yêu cầu về bồi thường thiệt hại, đề nghị của họ đối với việc xử lý bị cáo và các vấn đề khác có liên quan.
Kiểm sát viên cần lưu ý, đối với tội phạm về tình dục, nhất là đối với người bị hại là trẻ em thì việc đặt câu hỏi để tìm ra sự thật khách quan là rất cần thiết, nhưng cũng phải bảo vệ danh dự, nhân phẩm của người bị hại. Theo đó, không đặt câu hỏi để hỏi quá sâu, quá kỹ về việc trẻ em bị xâm hại tình dục vì như vậy sẽ gợi lại nỗi đau khổ cho các em.
Những mâu thuẫn (nếu có) thường là: mâu thuẫn giữa các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa; giữa các lời khai của từng bị cáo hoặc các bị cáo; giữa lời khai với vật chứng; giữa lời khai với các kết luận giám định hoặc các biên bản khám nghiệm hiện trường... Khi phát hiện có những mâu thuẫn này, Kiểm sát viên phải xét hỏi bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người giám định để làm rõ về các mâu thuẫn đó. Kiểm sát viên chỉ đề nghị hội đồng xét xử công bố lời khai của người được xét hỏi đã khai trước đó trong giai đoạn điều tra, truy tố theo đúng quy định tại Điều 308 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Đối với các chứng cứ, tài liệu, đồ vật mới xuất hiện tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải kiểm tra, xem xét thận trọng để có kết luận chấp nhận hay bác bỏ. Việc chấp nhận hay bác bỏ những chứng cứ, tài liệu, đồ vật phải có căn cứ. Trường hợp cần phải xác minh chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa thì Kiểm sát viên có thể đề nghị hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa. Trường hợp chưa đủ điều kiện kết luận mà tài liệu mới đó có thể làm thay đổi nội dung, tính chất vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị hội đồng xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trong phần luận tội của mình, ngoài việc phải tuân theo các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Kiểm sát viên còn phải đáp ứng yêu cầu trong các quy chế nghiệp vụ của ngành. Một bản luận tội chất lượng, phân tích đánh giá sâu sắc, lập luận chặt chẽ có cơ sở pháp lý, vận dụng pháp luật đúng đắn, đề ra quan điểm, đường lối xử lý phù hợp với pháp luật và tình tiết, chứng cứ của vụ án cũng là cơ sở giúp cho việc tranh luận của Kiểm sát viên đạt kết quả tốt nhất.
Ngoài các nội dung nêu trên, luận tội của Kiểm sát viên trong các vụ án xâm hại phụ nữ, trẻ em còn phải nêu được bài học rút ra từ vụ án, vấn đề nhận thức, vai trò của gia đình, nhà trường, xã hội trong công tác tuyên truyền đấu tranh, phòng ngừa đối với loại tội này.
Khi tranh luận lại với những ý kiến, quan điểm của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa khác với luận tội, thậm chí là trái ngược với luận tội, Kiểm sát viên cần phải lý giải, lập luận để đối đáp trực diện, đến cùng với các ý kiến, quan điểm đó mà không được vòng vo, né tránh. Các ý kiến tranh luận của Kiểm sát viên phải dựa trên những căn cứ pháp luật, các chứng cứ, tài liệu, đồ vật có trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra, đánh giá công khai tại phiên tòa.
Để thực hiện tranh luận tại phiên tòa đạt chất lượng và đáp ứng được những yêu cầu cải cách tư pháp, đòi hỏi Kiểm sát viên phải nắm vững và đánh giá chứng cứ vụ án một cách khách quan, toàn diện, cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội; nắm vững những quy định của pháp luật để khẳng định tính có căn cứ, hợp pháp của tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đồng thời chú ý thẩm tra, xác minh công khai tại phiên tòa để có cơ sở bác bỏ những vi phạm, thiếu sót về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra khi tranh luận với người bào chữa, khẳng định bản chất của vụ việc đang được xem xét đúng quy định của pháp luật.
Thực tiễn cho thấy, bên cạnh những Kiểm sát viên thể hiện rất tốt vai trò thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên tòa, nhất là giai đoạn tranh tụng, cũng còn nhiều Kiểm sát viên khi tranh luận với luật sư và bị cáo chưa có sức thuyết phục, thậm chí còn né tránh, ngại tranh luận. Một số Kiểm sát viên không nắm vững các quy định của pháp luật, dẫn đến tranh luận nhưng không có căn cứ, nên không phản bác được quan điểm phản biện của luật sư, của bị cáo, không được hội đồng xét xử chấp nhận. Có Kiểm sát viên không biết cách trình bày vấn đề một cách khoa học, lúng túng trong sử dụng từ ngữ và cách lập luận, dẫn tới hiệu quả tranh luận không cao. Ở một số vụ án, việc tuyên truyền, giáo dục chính sách, pháp luật, đạo đức xã hội của Kiểm sát viên tại phiên tòa còn hạn chế; chưa lồng ghép được nguyên nhân, điều kiện phạm tội để giáo dục, phòng ngừa hoặc phân tích, đánh giá tính chất mức độ của vụ án không sát với thực tế; phân tích mức độ rất nghiêm trọng nhưng lại đề nghị mức án nhẹ, gây hẫng hụt cho người nghe, làm ảnh hưởng đến việc tuyên truyền, giáo dục.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên
Nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của việc tranh tụng tại phiên tòa cho Kiểm sát viên
Viện kiểm sát Nhân dân phải quán triệt cho Kiểm sát viên nhận thức rõ việc tranh tụng tại phiên tòa không chỉ đánh giá kết quả hoạt động của cả giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có ý nghĩa quyết định trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung và các tội xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em nói riêng. Kiểm sát viên cần nhận thức được rằng, tranh luận tại phiên tòa không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ. Điểm cốt lõi để bảo đảm việc tranh luận tốt là phải nghiên cứu kỹ và nắm vững hồ sơ vụ án. Muốn vậy, Kiểm sát viên phải theo sát quá trình tố tụng ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình điều tra chứng minh tội phạm, hành vi phạm tội, bảo đảm để quá trình điều tra được khách quan, toàn diện và đầy đủ nhất về các tình tiết của vụ án, từ đó có sự chuẩn bị tốt nhất về nội dung tranh tụng. Bên cạnh đó, cần khắc phục tư tưởng bảo thủ đối với các lập luận để bảo vệ quan điểm truy tố khi có những tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa, có khả năng làm thay đổi một phần hay toàn bộ nội dung của vụ án, cần được điều tra bổ sung.
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên
Đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên phải được tiến hành thường xuyên nhằm mục tiêu xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên trong sạch, vững mạnh, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN. Nhiệm vụ cấp thiết là phải xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên thực sự có trình độ, năng lực. Quan tâm đào tạo đội ngũ Kiểm sát viên trẻ, có bản lĩnh, trình độ, có kỹ năng nghiệp vụ và năng lực thực tiễn trở thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành.
Viện kiểm sát Nhân dân tối cao cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát Nhân dân địa phương, tạo cơ chế hợp lý cho các đơn vị chủ động tổ chức tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng. Thực hiện triệt để việc phân cấp đào tạo, bồi dưỡng cho Viện kiểm sát Nhân dân cấp tỉnh. Đồng thời, có các cơ sở bồi dưỡng theo khu vực về nghiệp vụ để thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, thuận tiện cho học viên và sử dụng được những cán bộ có trình độ, năng lực, nhiều kinh nghiệm của Viện kiểm sát Nhân dân các địa phương. Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh căn cứ vào nhu cầu thực tiễn cần chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Kiểm sát viên, bảo đảm công tác này có chất lượng và có định hướng phát triển lâu dài.
Cần đổi mới và kiện toàn bộ máy các đơn vị làm công tác thực hành tranh tụng tại phiên tòa theo hướng chuyên sâu. Khẩn trương, rà soát đội ngũ cán bộ, công chức, cử các đối tượng đủ tiêu chuẩn, điều kiện dự thi Kiểm sát viên các ngạch, không hạn chế số lượng. Đổi mới phương pháp thi tuyển Kiểm sát viên, nhất là khâu ra đề thi nhằm bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, chọn được người đủ phẩm chất, năng lực, trình độ để bổ nhiệm vào các ngạch Kiểm sát viên. Thông qua việc thi tuyển Kiểm sát viên, tạo phong trào học hỏi, nghiên cứu, tạo động lực phấn đấu trong đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên; đánh giá, phân loại cán bộ, Kiểm sát viên để có biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng thích hợp; tăng cường cán bộ, Kiểm sát viên có kinh nghiệm cho bộ phận làm công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử hình sự; quan tâm xây dựng đội ngũ chuyên gia chuyên sâu trong từng loại án xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người nói chung, xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ, trẻ em nói riêng.
Bản thân mỗi Kiểm sát viên phải thường xuyên tự học, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ nghiệp vụ và kiến thức về mọi mặt. Thường xuyên rèn luyện tư duy logic, khả năng tổng hợp, phân tích đánh giá chứng cứ, dự kiến trước những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa và phương án giải quyết. Thường xuyên rèn luyện kỹ năng đọc, nói, viết, kỹ năng cảm hóa, giáo dục, thuyết phục người tham gia phiên tòa, nhất là kỹ năng tranh tụng. Biết kết hợp nhuần nhuyễn kiến thức pháp luật, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ với sự hiểu biết tổng hợp về các môn khoa học xã hội, khoa học tâm lý, vốn sống, kinh nghiệm nghề nghiệp... khi thực hiện nhiệm vụ. Có tác phong làm việc, sinh hoạt với tinh thần trách nhiệm cao, tự giác, tận tụy, khiêm tốn, tôn trọng mọi người; trau dồi phẩm chất đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, biết vượt qua chính mình, kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, tôn trọng lẽ phải... Tự mình đánh giá lại kết quả hoạt động sau mỗi phiên tòa; rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc những thiếu sót, chú ý lắng nghe các ý kiến góp ý của đồng nghiệp, dư luận với thái độ cầu thị để không ngừng hoàn thiện hơn kỹ năng nghiệp vụ của mình trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự nói chung cũng như việc trình bày luận tội, tham gia tranh luận của Kiểm sát viên tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng.
Bảo đảm các điều kiện, phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho công tác thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa
Trong những năm gân đây, cơ chế chính sách, điều kiện về phương tiện, trang thiết bị, kinh phí bảo đảm hoạt động cho ngành kiểm sát đã từng bước được nâng lên so với trước nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu nên đã ảnh hưởng nhiều tới chất lượng, hiệu quả hoạt động. Trong khi đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đặt ra nhiều yêu cầu, nhiệm vụ mới, vai trò và trách nhiệm của viện kiểm sát, Kiểm sát viên ngày càng cao, đòi hỏi các điều kiện về kinh phí, trang thiết bị, phương tiện làm việc phải được trang bị đầy đủ để phục vụ cho công tác chuyên môn, nghiệp vụ (phương tiện giao thông, liên lạc, máy vi tính, máy scan, USB, đĩa CD, VCD và các thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác xét xử...). Bên cạnh đó, cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất đổi mới, cải cách chính sách tiền lương và các chế độ đãi ngộ khác thỏa đáng, phù hợp với đặc thù nghề nghiệp của viện kiểm sát. Kịp thời khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong và tuyên dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong công tác này.
BÙI TRỌNG VINH
Trung tâm Thông tin thư viện, Trường Đại học Kiểm sát
Bàn về 12 điều khoản quan trọng về sáng chế tại Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2022