17 năm sau dịch SARS: Niềm vui trở lại (kỳ cuối)

21/04/2020 20:55 | 4 năm trước

(LSO) - Sau thời gian các y bác sĩ tham gia chống dịch, ngày tuyên bố khống chế thành công dịch, đó là thời khắc các bác sĩ thở phào nhẹ nhõm. Tất cả đều cảm thấy tự hào, rằng mình đã hoàn thành sứ mệnh đặc biệt.

Tắm cho bệnh nhân

Thấm thoát đã 17 năm trôi qua chống chọi với đại dịch SARS, nhưng những kỷ niệm vẫn mãi in sâu trong tâm trí ThS. Phạm Thị Ngọc Dung - nguyên Trưởng phòng Điều dưỡng (hiện là chuyên gia về điều dưỡng tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương) và các bạn đồng nghiệp.

Điều dưỡng Phạm Thị Ngọc Dung.

Với bà Dung, tất cả các bạn đồng nghiệp của bà tham gia phòng chống SARS ngày ấy, họ đều mang một tâm lý chung đó là sự lo lắng, hoang mang, sợ hãi và một chút ngại ngần. Bởi, vì tất cả các y bác sĩ lúc đó đứng trước rất nhiều áp lực và nhiều khó khăn.

“Áp lực thứ nhất, chúng tôi đang phải đối mặt với một dịch bệnh hết sức nguy hiểm SARS, dịch bệnh có nguy cơ lây nhiễm và tử vong rất cao. Đã có rất nhiều bạn đồng nghiệp của chúng tôi bị lây nhiễm SARS, có những đồng nghiệp đã ra đi mãi mãi.

Áp lực thứ hai là chúng tôi là điều dưỡng, nhiệm vụ là chăm sóc người bệnh, tiếp xúc trực tiếp nhiều nhất bên người bệnh. Chúng tôi thực hiện công tác chăm sóc người bệnh toàn diện: về chuyên môn như tiêm truyền, cho người bệnh uống thuốc, chăm sóc về dinh dưỡng; chăm sóc về tinh thần và vệ sinh cá nhân cho người bệnh. Do đó, nguy cơ lây nhiễm bệnh rất cao.

Áp lực thứ 3 là từ phía gia đình, lo lắng cho người thân của họ đang phải đương đầu với sự nguy hiểm không biết tính mạng người thân của họ ra sao? Có nhiều chị em con còn rất nhỏ chưa đầy một tuổi, có những chị bị mắc các bệnh mạn tính, nhưng tất cả vẫn không một chút ngần ngại khi tham gia chống dịch. Ngoài ra, còn áp lực từ xã hội, họ sợ tiếp xúc với chúng tôi sẽ bị lây nhiễm, vậy họ xa lánh, ngại tiếp xúc với chúng tôi. Có những đồng nghiệp của chúng tôi có chồng, vợ, con cái phải nghỉ làm việc, hoặc phải nghỉ học ở nhà bởi vì có bố mẹ, chồng vợ tham gia chống SARS”, bà Dung kể.

Suốt 45 ngày đêm chiến đấu với dịch SARS, là 45 ngày đêm nhân viên y tế và người bệnh cùng nhau chia sẻ khó khăn, áp lực và hiểm nguy.

Kỷ niệm trong khu cách ly mà bà Dung không thể nào quên được đó chính là việc vệ sinh cá nhân cho người bệnh hoàn toàn do điều dưỡng thực hiện. “Có những người bệnh chúng tôi xin phép để tắm, gội đầu có khi đến 3 lần/ngày mà người bệnh vẫn chưa đồng ý cho chúng tôi chăm sóc. Có người bệnh khi chúng tôi vệ sinh cá nhân cho họ, họ cứ ngại ngùng, hơi có chút e thẹn khi chúng tôi tiến hành chăm sóc. Họ nói ‘từ khi lớn lên đến giờ, chưa bao giờ được người khác tắm, gội đầu như thế này’, họ cứ lúng túng, ngượng ngùng mãi. Hay có những bệnh nhân cứ nắm chặt tay điều dưỡng ‘chị ở lại đây với em, đừng bỏ em một mình’, lúc đó chúng tôi lại động viên, chuyện trò để bệnh nhân yên tâm điều trị”.

Bà Dung bộc bạch: “Dù khó khăn, áp lực là vậy nhưng cũng không khuất phục được chúng tôi. Chúng tôi nhận thấy rằng, tất cả chúng tôi tham gia chống SARS ngày ấy, họ đều đã xác định được trách nhiệm của mình đó là nghề Y là nghề cứu người, chúng tôi lựa chọn lĩnh vực làm việc trong môi trường truyền nhiễm là phải luôn luôn đối mặt với dịch bệnh, phải tiếp xúc với các bệnh truyền nhiễm”.

Niềm vui trở lại

ThS. BSCKII Nguyễn Hồng Hà - nguyên Phó Giám đốc bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, Phó Chủ tịch Hội truyền nhiễm Việt Nam, một trong những bác sĩ trực tiếp trải qua đại dịch SARS không khỏi xúc động khi nhớ về chuỗi ngày chống dịch.

Bác sĩ Nguyễn Hồng Hà.

Ông nhớ lại, đại dịch SARS năm 2003 ban đầu là bệnh nhân Jonny Cheng người Mỹ gốc Hồng Kông được điều trị tại Bệnh viện Việt - Pháp. Bệnh nhân có biểu hiện nhiễm trùng hô hấp bình thường, Bệnh viện Việt – Pháp khi ấy cũng nhận thấy biểu hiện bệnh hơi khác với bệnh thông thường, có lấy mẫu xét nghiệm virus nhưng không tìm ra.

Tiếp đó, có mời thêm một chuyên gia của WHO là Bác sĩ Carlo Urbani để cùng thăm khám. Sau vài ba ngày nhân viên và bệnh nhân của bệnh viện bắt đầu có biểu hiện sốt, con số ngày một tăng.

Theo Bác sĩ Hồng Hà, thời điểm năm 2003 khi ấy ông đang là Trưởng khoa cấp cứu của viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới (thuộc Bệnh viện Bạch Mai, nay là Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương), ngày 08/3 các bác sĩ của Bệnh viện Việt - Pháp có mời ông sang hội chẩn cho Y tá Nguyễn Thị Lượng.

“Lúc đó, khi vào trong bệnh viện Việt - Pháp tôi thấy các bác sĩ thông báo và đã chuẩn bị phòng cách ly, quần áo bảo hộ, găng tay, khẩu trang để vào thăm khám. Lúc này, bệnh nhân Jonny Cheng xin trở về Hồng Kông để điều trị vì thấy lo lắng. Khi ấy, có 17 bệnh nhân thì có Y tá Lượng là nặng nhất, có biểu hiện khó thở, tổn thương tim phổi, chúng tôi thăm khám, theo dõi các biểu hiện và sau đó phải đặt ống thở máy cho Y tá này. Sau khi hội chẩn, tôi cũng như các chuyên gia, bác sĩ không rõ đây là bệnh gì, từ trước đến nay chưa gặp. Hướng điều trị khi ấy là dùng thuốc kháng sinh chống bội nhiễm, dùng các thuốc để hỗ trợ hô hấp và theo dõi”.

Đến sáng thứ hai, sau khi giao ban bệnh viện xong thì phía Bệnh viện Việt - Pháp tổ chức cuộc họp, có Bác sĩ Carlo Urbani - đại diện WHO; Phó Tổng giám đốc Bệnh viện Việt - Pháp Võ Văn Bản; GS. Trần Quỵ - Bệnh viện Bạch Mai; PGS. Nguyễn Đức Hiển - Phó Viện trưởng Viện Nhiệt đới Trung ương và Bác sĩ Nguyễn Hồng Hà.

Cuộc họp đã thống nhất đây là bệnh dịch chưa xác định được nguyên nhân xảy ra ở Bệnh viện Việt - Pháp, quy mô có thể còn tăng nữa, những bệnh nhân tiến triển nặng và chưa loại trừ khả năng có thể tử vong.

Các bác sĩ đã đưa ra quyết sách đó là tất cả nhân viên y tế của Bệnh viện Việt - Pháp được giữ lại viện để điều trị, còn bệnh nhân không phải nhân viên thì Bệnh viện Bạch Mai thu xếp điều trị. Nếu bệnh nhân khó thở nhiều cần phải thở máy thì Bệnh viện Bạch Mai hỗ trợ thêm.

Bệnh viện Việt - Pháp không có nhà tang lễ, ông Carlo Urbani nói nếu có nhiều bệnh nhân nặng và tử vong thì phải đảm bảo đúng quy trình xử lý trường hợp tử vong dịch, và Bệnh viện Bạch Mai phải hỗ trợ việc này.

Cuối cùng, phải báo cáo khẩn cấp Bộ Y tế để có đáp ứng, thông báo quốc tế.

Ngay sau đó, Bộ Y tế đã thành lập ban chống dịch bệnh, thông báo quốc tế và thông báo cho các bộ. Từ ngày 11/3, Bệnh viện Việt - Pháp không tiếp nhận bệnh nhân đến khám, Bác sĩ Hồng Hà kể lại.

Khó khăn nhất trong giai đoạn ấy chính là không có khẩu trang, áo choàng… “Anh em bác sĩ đều xác định đây là nhiệm vụ và cũng sẵn sàng làm việc, đương nhiên cũng có chút lo lắng. Đặc biệt, ngày 15/3 có tin ông Cheng tử vong, càng lo hơn. Nhưng về mặt tinh thần thì anh em rất sẵn sàng. Lúc đó, chỉ có nhân viên y tế và bệnh nhân, chăm sóc ăn uống đều một tay nhân viên y tế làm hết. Bệnh viện Bạch Mai cũng hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp bữa ăn cho các bệnh nhân, bác sĩ tại đây. Viện phí chưa tính đến, trước hết là miễn để chữa bệnh”, Bác sĩ Hồng Hà nói.

Sau thời gian các y bác sĩ tham gia chống dịch, ngày tuyên bố khống chế thành công dịch, đó là thời khắc các bác sĩ thở phào nhẹ nhõm.

“Cảm thấy tự hào, thấy rằng mình đã hoàn thành sứ mệnh đặc biệt và không một bác sĩ nào của viện chúng tôi bị nhiễm virus. Tuy nhiên, hay tin đồng nghiệp Bệnh viện Việt - Pháp tử vong cũng rất đau lòng, mỗi khi nhắc đến câu chuyện này chúng tôi đều cảm thấy có chút hụt hẫng”.

THANH HOA - THANH LIỄU

/nam-cam-ky-1-con-duong-tro-thanh-ong-trum-giang-ho-sai-gon.html