/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Bàn về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự

Bàn về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự

30/05/2023 05:55 |

(LSVN) - Xét xử vụ án hình sự là hoạt động trung tâm, đóng vai trò chính đó là Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành rà soát và đánh giá một cách toàn diện, khách quan, đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của vụ án hình sự để giải quyết, phán xét và quyết định bị cáo có tội hay không bằng việc tuyên một bản án công minh, đúng pháp luật. Qua đó, đảm bảo sức thuyết phục, tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan người vô tội, góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Vì vậy, bên cạnh giải quyết tốt các vấn đề trong vụ án hình sự thì cũng cần phải quan tâm tới những vấn đề dân sự khác có liên quan.

Trong thực tế, vì nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau nên các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn khi giải quyết vấn đề này, dẫn đến có nhiều bản án hoặc quyết định của Tòa án bị hủy về phần dân sự do vi phạm pháp luật tố tụng hình sự. Ngoài ra, pháp luật quy định vấn đề này chưa được cụ thể và chặt chẽ, dễ gây cản trở cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án trong quá trình tố tụng. Vì vậy, việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự còn nhiều sai sót nhất định.

Ảnh minh họa.

Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự như sau:

“Điều 30. Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự

Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự”.

Vấn đề dân sự trong vụ án hình sự bao gồm: Đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi thường giá trị tài sản bị chiếm đoạt nhưng bị mất hoặc bị hủy hoại, bị làm hư hỏng, buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng, đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản…; chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm,…

Như vậy, giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là một nguyên tắc cơ bản của BLTTHS, chi phối toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các vụ án có vấn đề dân sự nảy sinh do việc thực hiện tội phạm. Vì vậy, ngoài việc phải chứng minh và giải quyết phần trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh và giải quyết phần trách nhiệm dân sự trong vụ án. Điều này không những có tác dụng giải quyết triệt để, khách quan những quan hệ dân sự phát sinh do việc thực hiện tội phạm mà còn góp phần làm sáng tỏ những nội dung thuộc trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong việc định tội danh và định khung hình phạt hoặc việc khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. 

Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Một số bất cập trong các quy định của pháp luật về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự

Thứ nhất, trong thực tiễn xét xử còn phát sinh một số trường hợp cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát chỉ tập trung điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm, trách nhiệm hình sự mà ít quan tâm thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh, giải quyết phần dân sự phát sinh từ hành vi phạm tội.

Các thiếu sót thường là các tài liệu, chứng cứ dùng để chứng minh về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, căn cứ xác định thiệt hại…

Vì vậy, sau khi thụ lý hồ sơ vụ án, tùy trường hợp Tòa án phải trả hồ sơ để Viện Kiểm sát điều tra bổ sung (theo điểm a khoản 1 Điều 280 của BLTTHS) hoặc yêu cầu Viện Kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ (theo Điều 284 của BLTTHS) hoặc Tòa án phải tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ (theo Điều 252 của BLTTHS) mới có đủ căn cứ giải quyết phần dân sự trong vụ án, gây chậm tiến độ giải quyết, xét xử vụ án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.

Thứ hai, chưa có văn bản hướng dẫn thi hành Điều 30 của BLTTHS nên thực tiễn xét xử còn gặp vướng mắc là dựa vào tiêu chí nào để cơ quan tiến hành tố tụng xác định trường hợp nào vấn đề dân sự phải được giải quyết trong cùng vụ án hình sự và trường hợp nào được tách vấn đề dân sự để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Kiến nghị

Thứ nhất, cần nắm quy định chỉ được tách vấn đề dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết bằng vụ án dân sự khi đáp ứng điều kiện “giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự”.

Tuy nhiên, như thế nào là “chưa có điều kiện chứng minh” và “không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự” còn nhiều cách hiểu khác nhau nên cần sớm có văn bản hướng dẫn để tránh trường hợp tách một cách tùy tiện, ảnh hưởng đến quyền lợi của bị hại, nguyên đơn dân sự.

Mặt khác, quy định này cũng phần nào ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của chủ thể bị thiệt hại, bởi họ đã có quyền yêu cầu hoặc không yêu cầu bồi thường thì cũng nên trao cho họ quyền được yêu cầu giải quyết bằng một vụ án dân sự.

Thứ hai, cần chú ý xác định đúng tư cách, đầy đủ người có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại (bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan).

Đây là một trong những thiếu sót dễ dẫn đến trả hồ sơ điều tra bổ sung, hủy, sửa án. Ví dụ như sai sót trong xác định người bị hại trong các vụ án trộm cắp tài sản là chủ sở hữu tài sản hay người quản lý, người sử dụng tài sản vào thời điểm bị chiếm đoạt. Không làm rõ những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị hại trong các vụ án tai nạn giao thông dẫn đến chết người để làm rõ yêu cầu của họ,…

Thứ ba, cần chú ý xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường hoặc trách nhiệm liên đới bồi thường, năng lực trách nhiệm dân sự, độ tuổi khi thực hiện hành vi phạm tội, nhất là trong các vụ án thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ, do người phạm tội là người dưới 18 tuổi, người làm công, người học nghề… gây ra.

HOÀNG LÂM

Toà án quân sự quân khu 1

Bùi Thị Thanh Loan