/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Bàn về quy định thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bàn về quy định thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

16/06/2023 06:27 |

(LSVN) - Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế là các biện pháp mang tính chất cưỡng chế về mặt tố tụng nhằm mục đích kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ cho rằng người bị buộc tội, bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội… thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế như: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam, áp giải, dẫn giả... Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 (BLTTHS) đã quy định tương đối đầy đủ về trình tự, thủ tục, điều kiện, thẩm quyền và nhất là về thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế này.

Ảnh minh họa.

Thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm thuộc về Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa (trừ biện pháp tạm giam). Khoản 1 Điều 278 BLTTHS quy định cụ thể như sau:

“Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó chánh án Tòa án quyết định”.

Điều luật này đã quy định đầy đủ về thẩm quyền áp dụng, hủy bỏ, thay đổi biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, tuy nhiên, về mặt thời gian trong quy định này vẫn còn mâu thuẫn, chưa hợp lý. Cụ thể, nó mâu thuẫn về mặt thời gian với quy định về nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án tại Điều 276 BLTTHS. Điều 267 quy định như sau:

“1. Khi Viện kiểm sát giao bản cáo trạng, hồ sơ vụ án và vật chứng kèm theo (nếu có), Tòa án phải kiểm tra và xử lý…

2. Việc giao nhận hồ sơ vụ án và bản cáo trạng được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này và đưa vào hồ sơ vụ án.

Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án và bản cáo trạng thì Tòa án phải thụ lý vụ án. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án phải phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án”.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 267 BLTTHS, Chánh án Tòa án sẽ có thời hạn tối đa là 03 ngày để xem xét, quyết định phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa để giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng. Điều này xảy ra trường hợp khi hết thời hạn 03 ngày như quy định nêu trên, Chánh án Tòa án mới phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Như vậy sẽ có tối đa 03 ngày chưa có Thẩm phán chủ tọa phiên tòa để thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 278 BLTTHS.

Có thể thấy, giữa hai quy định này có sự mâu thuẫn về mặt thời gian, tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau, không thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật. Điều này gây ra những khó khăn, vướng mắc nhất định khi áp dụng quy định này.

Do đó, để hạn chế khó khăn, vướng mắc thì cần phải sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 278 BLTTHS cho phù hợp. Tác giả kiến nghị cần phải thay thế cụm từ “Sau khi thụ lý vụ án” bằng cụm từ “Sau khi được phân công giải quyết vụ án” và thêm cụm từ “khi thụ lý vụ án” vào cuối khoản 1 Điều 278. Theo đó, Điều 278 cần được sửa đổi lại như sau:

Sau khi được phân công giải quyết vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định khi thụ lý vụ án.

LÊ XUÂN QUANG

Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 1

Bùi Thị Thanh Loan