Bàn về các chủ thể có thể trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự

29/03/2023 09:03 | 1 năm trước

(LSVN) - Quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là một trong những quyền cơ bản của con người, được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để thi hành Hiến pháp năm 2013, nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự (VVDS), bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Toà án, ngày 25/11/2015 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) thay thế BLTTDS năm 2004 với nhiều quy định mới. Trong đó, có cả các quy định về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (NBVQVLIHPCĐS). Những quy định mới của Bộ luật này đã tạo điều kiện cho sự tham gia của NBVQVLIHPCĐS trong tố tụng dân sự (TTDS), nâng cao hiệu quả tham gia tố tụng của họ.

Ảnh minh họa.

Một nguyên tắc đặc thù của pháp luật TTDS là tôn trọng quyền định đoạt của đương sự. Đương sự có thể lựa chọn nhiều cách thức khác nhau để thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Giải quyết tranh chấp, yêu cầu tại Tòa án là một trong các cơ chế do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Tuy nhiên, việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTDS của đương sự trước hết phụ thuộc vào khả năng tham gia TTDS của đương sự. Nhưng trong thực tiễn không phải trong mọi trường hợp đương sự đều có thể tự mình tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mình mà có thể vì nhiều lý do khác nhau như hạn chế về trình độ pháp luật, không có kinh nghiệm, nên họ cần sự hỗ trợ pháp lý của người bảo vệ cho mình, cụ thể là Luật sư hoặc những người khác, nhất là trong trường hợp nhận thức về pháp luật và năng lực tham gia tố tụng của đương sự có hạn chế. Xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo quyền này của đương sự, khi tham gia tố tụng, đương sự có thể tự mình thực hiện nhưng cũng có thể lựa chọn NBVQVLIHP để bảo vệ mình. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của bản thân hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Ngoài ra, TTDS là quá trình phức tạp gồm nhiều giai đoạn, vì vậy có thể trong những giai đoạn đầu đương sự chưa nhận thấy sự cần thiết của người bảo vệ, nhưng ở những giai đoạn sau, nhất là ở giai đoạn xét xử tại tòa, hay tại cấp xét xử cao hơn thì nhu cầu này xuất hiện. Tuy nhiên, điều này cũng bị hạn chế trong một số trường hợp như có nhiều đương sự trong cùng một vụ việc và cùng yêu cầu một người bảo vệ quyền và lợi ích cho mình nhưng họ có quyền lợi đối lập nhau hay trường hợp Tòa án từ chối đăng ký người bảo vệ. Thông qua sự hỗ trợ pháp lý của NBVQVLIHPCĐS, đương sự sẽ nhận thức được đúng hơn các quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 

Theo quy định của pháp luật: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự là người tham gia vào quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án khi đương sự đề nghị, có đủ các điều kiện do pháp luật quy định và được Tòa án làm thủ tục đăng ký để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự tại Tòa án”. Mục đích tham gia quá trình tố tụng của NBVQVLIHPCĐS là để hỗ trợ pháp lý cho đương sự, giúp cho Tòa án và đương sự làm sáng tỏ nội dung vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Hiện nay, vấn đề NBVQVLIHPCĐS được điều chỉnh bởi nhiều văn bản luật khác nhau (Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Công đoàn,...) nhưng chủ yếu tập trung tại BLTTDS năm 2015. Bộ luật này quy định tương đối đầy đủ, cụ thể, có tính kế thừa và phát huy hơn so với các quy định trước đây về chế định NBVQVLIHPCĐS trong TTDS.

1. Quy định về chủ thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự 

Xuất phát từ mục đích tham gia tố tụng, NBVQVLIHPCĐS “thực chất họ là người cố vấn pháp lý cho đương sự tham gia tố tụng và biện hộ cho đương sự trước Tòa án” [1]. Vì thế, người bảo vệ cần phải đáp ứng các điều kiện am hiểu pháp luật và phải có chuyên môn, nghiệp vụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự một cách tốt nhất. Theo hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới, những người đáp ứng đủ điều kiện để trở thành NBVQVLIHPCĐS chủ yếu là Luật sư. Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật Nhật Bản thì người bảo vệ quyền lợi cho đương sự trong các vụ án dân sự là Luật sư trừ những vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn thì một người không phải là Luật sư có thể trở thành người bảo vệ quyền lợi cho đương sự (Điều 54 Bộ luật TTDS Nhật Bản). Tuy nhiên chỉ có am hiểu pháp luật thì chưa đủ, họ còn phải trang bị các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết như kỹ năng hành nghề khi tham gia tố tụng, kỹ năng tiếp xúc khách hàng, kỹ năng đàm phán…

Theo quy định tại Điều 63, BLTTDS năm 2004 thì chỉ có Luật sư và công dân Việt Nam được quy định là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. BLTTDS năm 2011 sửa đổi có bổ sung trợ giúp viên pháp lý. Và đến BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm đại diện tổ chức tập thể người lao động để bảo vệ đương sự là người lao động và tập thể người lao động trong các vụ án tranh chấp liên quan tới quan hệ lao động.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 75 BLTTDS năm 2015, đương sự có thể yêu cầu một trong các chủ thể sau đây làm NBVQVLIHP của mình, bao gồm: Luật sư tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật về Luật sư; Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia TGPL theo quy định của pháp luật về TGPL; Đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động là NBVQVLIHP của người lao động trong vụ việc lao động theo quy định của pháp luật về lao động, công đoàn; Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không có án tích hoặc đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; không phải là cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát và công chức, sỹ quan, hạ sỹ quan trong ngành Công an. Pháp luật có quy định riêng với mỗi chủ thể này.

1.1. Chủ thể là Luật sư

Luật sư là những người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật, và được công nhận quyền tham gia tố tụng. Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập. Trong TTDS, Luật sư là một trong những chủ thể tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc là người đại diện theo ủy quyền của đương sự (Khoản 2 Điều 22 Luật Luật sư sửa đổi năm 2012). Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư. Theo quy định tại Điều 10, luật Luật sư năm 2012 thì một người được phép hành nghề Luật sư khi có đủ tiêu chuẩn: “Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề Luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề Luật sư thì có thể hành nghề luật sư”, và “muốn hành nghề Luật sư phải có chứng chỉ hành nghề Luật sư và gia nhập một Đoàn Luật sư”. Luật sư khi tham gia với tư cách là NBVQVLIHPCĐS trong TTDS là một trong những chủ thể tham gia, góp mặt trong các giai đoạn của TTDS bằng những hoạt động nghề nghiệp cụ thể của mình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án dân sự. Tùy theo từng loại tranh chấp, Luật sư tham gia giúp đương sự hòa giải, giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp theo đúng quy định, trình tự của pháp luật. Hoạt động nghề nghiệp của Luật sư góp phần bảo vệ công lý, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ, công bằng, văn minh. Sự lớn mạnh về đội ngũ và trình độ của Luật sư Việt Nam, đặc biệt là trên địa bàn thành phố Hà Nội không chỉ nói lên nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý ngày càng tăng với việc phát triển kinh tế - xã hội, mà còn thể hiện khả năng đáp ứng về kỹ năng hành nghề của đội ngũ Luật sư đối với nhu cầu ngày càng phức tạp của khách hàng.

Như vậy, Luật sư là đối tượng đầu tiên được pháp luật chấp nhận là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự (điểm a khoản 2 Điều 75 Bộ luật TTDS năm 2015).

1.2. Chủ thể là Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý

Trợ giúp viên pháp lý là một chức danh ở Việt Nam dùng để chỉ về những người thực hiện hoạt động TGPL. Họ là viên chức nhà nước và làm việc tại Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước. Hiện nay trên thế giới và ở nước ta có nhiều cách hiểu khác nhau về TGPL. Hầu hết pháp luật các nước trên thế giới dựa trên lý luận về nhân quyền và đảm bảo nhân quyền, coi trợ giúp pháp lý như là một biện pháp bảo đảm tư pháp dành cho người không có điều kiện kinh tế tiếp cận, sử dụng pháp luật. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tại Điều 2, Luật TGPL năm 2017 ghi nhận: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật”. Điều 7 Luật TGPL năm 2017 quy định những đối tượng được TGPL gồm: “Người có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, trẻ em, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo, người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; người nhiễm HIV” Trợ giúp viên pháp lý và người làm công tác TGPL, theo quy định tại khoản 1, Điều 17 Luật TGPL năm 2017 thì người thực hiện TGPL có thể là Trợ giúp viên pháp lý; Luật sư thực hiện TGPL theo hợp đồng với Trung tâm TGPL nhà nước; Luật sư thực hiện TGPL theo phân công của tổ chức tham gia TGPL; tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia TGPL; cộng tác viên TGPL. 

Theo quy định tại Khoản 2, Điều 24  Luật TGPL năm 2017 thì Cộng tác viên pháp lý là những người đã nghỉ hưu, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe, có nguyện vọng thực hiện trợ giúp pháp lý có thể trở thành cộng tác viên trợ giúp pháp lý, bao gồm: trợ giúp viên pháp lý, thẩm phán, thẩm tra viên ngành Tòa án; kiểm sát viên, kiểm tra viên ngành kiểm sát; điều tra viên; chấp hành viên, thẩm tra viên thi hành án dân sự, chuyên viên làm công tác pháp luật tại các cơ quan nhà nước được Giám đốc Trung tâm TGPL nhà nước đề nghị; Giám đốc Sở Tư pháp cấp thẻ cộng tác viên TGPL. 

Các trợ giúp viên pháp lý và người thực hiện TGPL được thực hiện TGPL trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Các hình thức TGPL bao gồm: Tham gia tố tụng; tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng theo điều 27 Luật TGPL năm 2017. 

1.3. Chủ thể là đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động

Công đoàn trực tiếp bảo vệ quyền lợi người lao động trong nhiều lĩnh vực, đại diện cho tập thể người lao động khi có tranh chấp trong lĩnh vực lao động. Vấn đề công đoàn thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động ngày càng được chú trọng hơn, được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Điều 10 của Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội”. Theo quy định của pháp luật Việt Nam về Công đoàn hiện hành thì Công đoàn: “Đại diện cho tập thể người lao động tham gia tố tụng trong vụ án lao động, hành chính, phá sản doanh nghiệp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động và người lao động...” và được quy định cụ thể tại Điều 11 Nghị định 43/2013/NĐ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành điều 10 của Luật Công đoàn về quyền, trách nhiệm của công đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.  

Theo pháp luật về lao động, tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở là Ban chấp hành Công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở nơi chưa thành lập Công đoàn cơ sở. Đại diện Ban chấp hành Công đoàn sẽ là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động tham gia TTDS đối với những tranh chấp, yêu cầu lao động được liệt kê tại Điều 32, 33 Bộ luật TTDS năm 2015.

So với BLTTDS năm 2004 được SĐBS năm 2011 thì BLTTDS năm 2015 đã mở rộng phạm vi chủ thể này có thể trở thành NBVQVLIHP của người lao động. Trong đó, Công đoàn là một tổ chức gần gũi, hoạt động thiết thực và có hiệu quả trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, tạo mối quan hệ hài hòa, ổn định giữa các chủ thể tham gia lao động. 

Vai trò của Công đoàn Việt Nam không ngừng phát triển, mở rộng qua các thời kỳ. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ mở cửa, hội nhập và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đã xuất hiện quan hệ chủ - thợ, tình trạng vi phạm đến quyền, lợi ích công nhân lao động có xu hướng phát triển. Vai trò của tổ chức Công đoàn ngày càng được khẳng định trong việc tuyên truyền và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong TTDS khi có tranh chấp lao động xảy ra.

1.4. Chủ thể là công dân Việt Nam

Công dân Việt Nam muốn trở thành NBVQVLIHPCĐS thì phải đáp ứng các điều kiện được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 75 BLTTDS năm 2015: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không có án tích hoặc đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính; không phải là cán bộ, công chức ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an.

Đây là quy định “mở” của BLTTDS năm 2015 nhằm tạo điều kiện cho những công dân Việt Nam có hiểu biết pháp luật, mặc dù không có chức danh tư pháp vẫn có thể tham gia tố tụng với tư cách NBVQVLIHPCĐS nhằm bảo đảm quyền lợi cho các đương sự.

Khoản 1, Điều 20 BLDS năm 2015 quy định: “Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên” và khoản 2 quy định “Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,…”. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Như vậy, người từ đủ mười tám tuổi (tính theo ngày tròn) được suy đoán là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Những cá nhân này là những chủ thể có đầy đủ tư cách chủ thể và có thể tham gia vào các quan hệ dân sự độc lập. 

Như vậy, theo quy định tại Điều 75 BLTTDS năm 2015, chúng ta dễ dàng xác định những đối tượng nào có thể trở thành NBVQVLIHPCĐS. Có thể nhận thấy chủ thể có thể làm NBVQVLIHPCĐS khá đa dạng. Trong đó có một số chủ thể chịu sự điều chỉnh của một số văn bản pháp luật đặc thù. Đối với đối tượng là Luật sư, trợ giúp viên pháp lý hoặc người trợ giúp pháp lý, đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động đều có quy định pháp luật chuyên ngành hướng dẫn cụ thể. Chỉ còn đối tượng là công dân Việt Nam được quy định cụ thể tại BLTTDS năm 2015. Nhưng khi muốn trở thành NBVQVLIHPCĐS họ đều phải đảm bảo điều kiện để có thể thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ cho đương sự của mình. Tuy nhiên, quy định này đã bộc lộ một số hạn chế và thiếu sót nhất định. 

2. Vướng mắc trong việc tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự của các chủ thể trên tại các Tòa án 

Sự tham gia TTDS của NBVQVLIHPCĐS có vai trò rất quan trọng đối với cả việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án. NBVQVLIHPCĐS có lợi thế am hiểu pháp luật. Vì vậy, việc tham gia tố tụng của họ giúp cho quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng, bảo vệ được lợi ích của đương sự. Không những thế, với sự tham gia này, quá trình xét xử vụ án của Tòa án được công minh hơn, làm cho những người tiến hành tố tụng sẽ thận trọng và làm việc đúng pháp luật hơn trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.

Vai trò của NBVQVLIHPCĐS tuy có khác biệt ở các giai đoạn TTDS nhưng NBVQVLIHPCĐS vẫn luôn thể hiện được tầm quan trọng của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời cũng góp phần không nhỏ trong việc bảo đảm tính dân chủ, tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử. Mặc dù sự tham gia của NBVQVLIHPCĐS trong các vụ án dân sự có xu hướng tăng nhưng tỷ lệ số vụ án có NBVQVLIHPCĐS trên tổng số các vụ án mà Tòa án đã giải quyết nhìn chung vẫn còn thấp. Việc tham gia tố tụng của NBVQVLIHPCĐS tại các Tòa án vẫn còn hạn chế. Đặc biệt, còn rất nhiều vụ án mà Tòa án giải quyết chưa có sự tham gia của NBVQVLIHPCĐS.

Để bảo vệ quyền lợi cho đương sự, NBVQVLIHPCĐS phải là người có kiến thức pháp lý, kỹ năng nghề nghiệp và kinh nghiệm tham gia tố tụng. Tuy nhiên, không phải tất cả những người khác theo quy định tại khoản 2 Điều 75 BLTTDS năm 2015 đều được đào tạo, am hiểu pháp luật và có kỹ năng tham gia tố tụng. Chất lượng tham gia tố tụng của của NBVQVLIHPCĐS tại Tòa án chưa đáp ứng được triệt để yêu cầu tranh tụng theo tinh thần cải cách tư pháp. Nhiều NBVQVLIHPCĐS còn thiếu kinh nghiệm trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ, tình tiết liên quan đến quá trình tranh luận, đưa ra yêu cầu, kiến nghị tại phiên tòa. Một số ít NBVQVLIHPCĐS còn yếu về nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp, chưa cập nhật được các văn bản pháp luật cần thiết cho hoạt động bảo vệ đương sự của mình trong khi pháp luật tố tụng đã quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ  của họ trong BLTTDS năm 2015. Nhiều NBVQVLIHPCĐS còn lúng túng trong hoạt động của mình tại phiên tòa. Có trường hợp NBVQVLIHPCĐS và khách hàng của mình lại mâu thuẫn nhau hay không hiểu ý nhau trong phần xét hỏi. 

Trong số các chủ thể là NBVQVLIHPCĐS thì Luật sư là người có hiểu biết pháp luật và kinh nghiệm tham gia TTDS hơn cả. Tuy nhiên, năng lực của một số Luật sư khi tham gia tố tụng còn chưa cao dẫn tới trong nhiều VVDS sự có mặt của NBVQVLIHPCĐS không đáp ứng được yêu cầu đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Việc tuân thủ quy tắc đạo đức của các Luật sư khi tham gia phiên tòa và phong cách ứng xử nghề nghiệp vẫn chưa được đánh giá cao. Nhiều Luật sư trong các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm còn có thái độ ứng xử nghề nghiệp chưa chuẩn mực trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các Luật sư đồng nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy tín của đội ngũ Luật sư. Thực tế nêu trên dẫn đến tình trạng nhiều Luật sư vi phạm quy định của pháp luật, về trách nhiệm cũng như đạo đức nghề nghiệp. Bên cạnh đó, trong những vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài thì nhiều Luật sư tham gia còn mang tính chất “hình thức” bởi khả năng tiếng anh pháp lý hạn chế. 

 Hiện nay, đội ngũ Luật sư nhìn chung vẫn còn yếu cả về số lượng và chất lượng; chất lượng Luật sư không đồng đều. Theo quy định của Luật Luật sư cho phép một số đối tượng được miễn đào tạo nghề Luật sư. Mặc dù quy định này tỏ ra hợp lý khi cung cấp đội ngũ Luật sư có sẵn kinh nghiệm hành nghề luật trong bối cảnh lực lượng Luật sư còn thiếu. Tuy nhiên, về lâu dài, sẽ nảy sinh nhiều hệ quả. Cụ thể, một số đối tượng được miễn như nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp luật là những đối tượng có kiến thức chuyên sâu về pháp luật nhưng ở những vị trí công tác khác, vai trò khác nhiều với Luật sư. Ở khía cạnh khác, quy định này cũng làm suy giảm sự cạnh tranh minh bạch để hướng đến cung cấp dịch vụ pháp lý ngày một chuyên nghiệp của cơ quan tư pháp, đặc biệt là trong quá trình tố tụng. Nhiều Luật sư trẻ giỏi ngoại ngữ, tin học nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp còn hạn chế. Mỗi tổ chức hành nghề tính trung bình chỉ có 03 Luật sư, điều này cho thấy tính chuyên nghiệp của các tổ chức hành nghề Luật sư chưa cao.

Ngoài ra, hoạt động của Luật sư vẫn còn dàn trải, thiếu sự chuyên môn hóa trong việc tham gia TTDS dẫn tới năng lực của Luật sư nói chung, và trong hoạt động TTDS nói riêng còn chưa cao. Theo thống kê của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, số Luật sư kiêm nhiệm nghề nghiệp khác hoặc không hành nghề Luật sư thường xuyên, không sống bằng nghề Luật sư chiếm tỷ lệ cao. Vẫn còn một số Luật sư bị khiếu nại, tố cáo, có trường hợp bị kỷ luật tạm đình chỉ tư cách thành viên, xóa tên khỏi danh sách thành viên của Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. Trong nhiệm kỳ IX, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội đã xóa tên 11 Luật sư, 01 tập sự hành nghề Luật sư, tạm đình chỉ hành nghề 04 Luật sư, cảnh cáo 03 Luật sư, khiển trách 01 Luật sư. 

Chất lượng người tham gia TTDS với vai trò NBVQVLIHPCĐS chưa được đánh giá cao và chưa có sự đồng đều. Có hạn chế đó một phần do đối tượng đương sự được bảo vệ bị giới hạn với những trường hợp này. Cụ thể trợ giúp viên pháp lý chỉ trợ giúp một nhóm đối tượng đặc biệt được quy định trong luật TGPL. Số lượng vụ việc tham gia TTDS của trợ giúp viên pháp lý trong thời gian qua còn thấp so với nhu cầu TGPL của người dân và số lượng án có liên quan đến người được TGPL phải giải quyết hàng năm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Số lượng vụ việc tham gia TTDS do trợ giúp viên pháp lý thực hiện chiếm tỉ lệ chưa cao (khoảng 20%) trong tổng số các vụ việc TGPL do trợ giúp viên pháp lý thực hiện. Chất lượng vụ việc TGPL trong TTDS chưa đồng đều, chất lượng một số bản bảo vệ chưa cao. Hoạt động của trợ giúp viên pháp lý trong thực tiễn còn gặp nhiều vướng mắc. Nguồn nhân lực thực hiện TGPL còn nhiều bất cập. Một số địa phương bố trí cán bộ không có bằng cử nhân luật tham gia làm việc tại Trung tâm gây khó khăn trong việc tạo nguồn bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý. Trong lĩnh vực tham gia tố tụng một số trợ giúp viên pháp lý còn thiếu kinh nghiệm, kỹ năng hành nghề, bởi vì họ ít có cơ hội cọ xát, thực hành nghề nghiệp. Một số quy định trong pháp luật TGPL và pháp luật TTDS chưa tạo điều kiện thuận lợi để trợ giúp viên pháp lý thực hiện tốt vai trò của mình; nhận thức về vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong TTDS chưa thống nhất; Chất lượng của đội ngũ TGPL còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp.

Đối với đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động cũng chỉ tham gia bảo vệ cho các đương sự là người lao động trong các vụ án tranh chấp về lao động. Trong khi số lượng các vụ án về lao động rất ít. Có những Tòa án tại Hà Nội trong năm 2020, 2021 không phát sinh vụ tranh chấp về lao động nào. 

Đối tượng công dân Việt Nam tham gia làm NBVQVLIHPCĐS tuy rằng là một điểm tiến bộ của BLTTDS, nhưng về mặt thực tiễn là không thực sự khả quan. Qua nghiên cứu thì hầu như không có đối tượng là công dân Việt Nam tham gia làm NBVQVLIHPCĐS ngoài Luật sư, trợ giúp viên pháp lý hay đại diện của tổ chức đại diện tập thể người lao động. Bởi lẽ, công dân Việt Nam thường chỉ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự với tư cách là người đại diện của đương sự do có thể họ có kiến thức pháp luật, nhưng chưa có kỹ năng tham gia tố tụng. Bên cạnh đó có thể nhận thấy, các đối tượng là công dân Việt Nam thì không có chức danh tư pháp giống như Luật sư, trợ giúp viên pháp lý... Mặt khác, đối với Luật sư hay trợ giúp viên pháp lý, đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động thì đều có chế định điều chỉnh riêng. Cụ thể là Luật sư chịu sự điều chỉnh của Luật Luật sư; trợ giúp viên pháp lý chịu sự điều chỉnh của Luật TGPL; đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động chịu sự điều chỉnh của Luật Lao động, Luật Công đoàn; còn đối với NBVQVLIHPCĐS là công dân Việt Nam khác thì không có chế định điều chỉnh cụ thể. Thực tế đương sự cũng rất ít khi “nhờ” đối tượng này bảo vệ cho mình. Theo Luật sư Phan Trung Hoài, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam thì “những công dân tham gia TTDS với vai trò như một Luật sư có chung hạn chế là chưa được học tập và tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng hoạt động nghề nghiệp cũng như không bị chi phối bởi bất cứ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp nào" [2]. 

Công dân Việt Nam là NBVQVLIHPCĐS có thể sẽ làm giảm chất lượng tranh tụng cũng như kéo dài tiến độ phiên tòa. Bởi lẽ, quá trình tố tụng nói chung và quá trình TTDS nói riêng khá phức tạp, vì vậy không phải ai cũng có thể thực hiện tốt việc bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Do đó nhiều khi nó lại gây nên “sự phiền toái, hao tiền, tốn của, mất thời gian, lao tâm mệt trí” [3]. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án dân sự nhanh chóng hay kéo dài phụ thuộc rất lớn vào việc cung cấp chứng cứ chứng minh để Tòa án tìm ra sự thật vụ án. Nếu NBVQVLIHPCĐS không có kỹ năng, kinh nghiệm và kiến thức pháp luật và đạo đức nghề nghiệp sẽ làm cho việc giải quyết vụ án dân sự kéo dài, tốn kém về nhiều mặt. Vì vậy, công dân Việt Nam có nhân thân tốt như có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không có án tích hoặc đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lí hành chính thì chỉ là yếu tố cần nhưng chưa đủ để có thể bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong khi đó, những người am hiểu pháp luật, có kỹ năng nghề nghiệp chuyên nghiệp, dày dạn kinh nghiệm, có đạo đức nghề nghiệp sẽ là chỗ dựa tin cậy, giúp đỡ cho các đương sự bảo vệ hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Hơn nữa, công dân Việt Nam đáp ứng đủ các điều kiện như trên nhưng đang bị khởi tố, pháp luật cũng chưa có quy định không chấp nhận để họ là NBVQVLIHPCĐS. Những đối tượng này vẫn có đủ quyền công dân. Vậy nếu chấp nhận và làm thủ tục cho họ là NBVQVLIHPCĐS thì ở các giai đoạn sau nếu họ không thể tiếp tục tham gia tố tụng được thì sẽ ảnh hưởng tới đương sự. Hơn nữa, Tòa án  phải ra quyết định hoãn phiên tòa nếu họ không có đơn xét xử vắng mặt. Hiện tại, vấn đề này chưa có căn cứ pháp luật nào quy định.

Và một trường hợp nữa đặt ra là trong quá trình tố tụng mà đương sự muốn chấm dứt tư cách của NBVQVLIHPCĐS thì họ cần làm gì? Họ có thể yêu cầu chấm dứt và Tòa án  ra quyết định chấm dứt? Về vấn đề này pháp luật TTDS hiện hành cũng chưa quy định.

[1] Nguyễn Công Bình (1998), Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.63.

[2] https://tuoitre.vn/cong-dan-cung-duoc-bao-chua-tai-toa-nhu-luat-su-1236598.htm, truy cập ngày 02/6/2022. 

[3] Nguyễn Mạnh Bách (1999), Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Đồng Nai, Đồng Nai, tr.202.

Thạc sĩ TRẦN THỊ THU

Gian lận trong kinh doanh bảo hiểm: Vướng mắc, bất cập và đề xuất, kiến nghị