Ảnh minh họa.
I. Một số quy đinh về trình tự, thủ tục hoà giải tranh chấp về quyền sử dụng đất tại UBND cấp xã
Tranh chấp về quyền sử dụng đất là tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất. Nhóm tranh chấp này có một số dạng tranh chấp cụ thể như: Một bên được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn một bên đang trực tiếp sử dụng một phần hoặc toàn bộ đất mà bên kia được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tranh chấp về ranh giới đất liền kề, chủ đất cũ đòi lại đất cho thuê, cho mượn trước đó; cấp trùng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về một phần hoặc toàn bộ thửa đất cho hai người hoặc hộ gia đình;… Theo quy định tại khoản 2, Điều 202, Luật Đất đai năm 2013 thì tranh chấp về quyền sử dụng đất mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Pháp luật hiện nay cũng có quy định về trình tự, thủ tục hoà giải tranh chấp đất đai được quy định tại Điều 202, Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ (gọi tắt là Nghị định số 43/2014). Cụ thể như sau:
1. Nhận đơn yêu cầu
Khi một trong các bên không thể tự thương lượng hoà giải về tranh chấp về quyền sử dụng đất thì họ thường nộp đơn yêu cầu giải quyết đến UBND cấp xã. Tuy nhiên, trình độ nhận thức pháp luật của người dân là khác nhau và hiện nay đơn yêu cầu giải quyết tại UBND cấp xã không có biểu mẫu thống nhất trong cả nước nên biểu mẫu đơn yêu cầu giải quyết và nội dung trong đơn ở từng địa phương là có khác nhau. Điều này đã gây ra những khó khăn nhất định trong trong việc làm đơn yêu cầu của người dân và công tác tiếp nhận đơn yêu cầu của công chức được phân công tiếp nhận đơn yêu cầu của người dân tại UBND cấp xã. Thông qua, công tác thụ lý đơn khởi kiện tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Toà án, có thể tóm tắt hình thức và nội dung đơn yêu cầu cơ bản như sau:
- Thông tin họ, tên; địa chỉ người yêu cầu và người bị yêu cầu.
- Tóm tắt nguồn gốc, quá trình canh tác, sử dụng đất tranh chấp và nguyên nhân xảy ra tranh chấp.
- Nêu rõ đất tranh chấp là thuộc thửa đất số mấy, tờ bản đồ số mấy, do ai đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đất do ai kê khai đăng ký (nếu chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).
- Nêu rõ yêu cầu cụ thể là gì.
Bên cạnh nộp đơn yêu cầu thì người yêu cầu có thể nộp kèm theo đơn các tài liệu, chứng cứ khác (nếu có) như: Biên bản hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở; bản sao: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trích lục thửa đất; giấy tay mua bán, sang nhượng đất; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; giấy CMND của người yêu cầu…
2. Các công việc mà UBND cấp xã có trách nhiệm thực hiện sau khi nhận đơn yêu cầu
Theo quy định tại khoản 1, Điều 88, Nghị định số 43/2014 thì sau khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có), UBND cấp xã có trách nhiệm thực hiện các công việc sau:
2.1. Tiến hành thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất
Đây là một thủ tục bắt buộc phải thực hiện nhằm mục đích đảm bảo cho việc hòa giải mang lại hiệu quả và thuyết phục. Làm tốc công tác này sẽ là tiền đề, điều kiện góp phần làm cho công tác hoà giải đạt hiệu quả và có sức thuyết phục hơn. Công việc này thường do công chức tư pháp hoặc địa chính thực hiện và sau đó lập báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh nội dung tranh chấp đất đai. Nội dung báo cáo có các nội dung chủ yếu sau:
- Xác định rõ quan hệ tranh chấp mà các bên yêu cầu giải quyết là gì: ai tranh chấp với ai (cá nhân với cá nhân hay hộ gia đình tranh chấp, lưu ý phân biệt vì hệ quả pháp lý khác nhau); diện tích, loại đất tranh chấp, yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu của bị đơn.
- Nguồn gốc và quá trình sử dụng đất tranh chấp. Tùy theo từng vụ việc, ở từng địa phương mà việc xác minh nguồn gốc, quá trình sử dụng đất có cách làm khác nhau. Tuy nhiên, để làm rõ nguồn gốc cũng như quá trình sử dụng đất thì cần xác minh đối với những người sống lân cận đất tranh chấp, người cao tuổi tại địa phương, đại diện chính quyền địa phương…
- Thu thập thông tin hồ sơ địa chính qua các thời kỳ (tờ bản đồ, diện tích, loại đất, sổ mục kê, sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính…).
- Xác định hiện trạng sử dụng đất đang tranh chấp (phải kiểm tra hiện trường, lưu ý thủ tục kiểm tra hiện trường phải đảm bảo chặt chẽ, đúng quy định); so sánh thông tin địa chính qua các thời kỳ và phải có lý giải sự biến động (nếu có).
- Tìm hiểu nguyên nhân và diễn biến phát sinh tranh chấp và kết quả hòa giải ở cơ sở, tự hòa giải.
- Kiểm tra tình trạng sử dụng đất hiện nay của các bên tranh chấp (hoàn cảnh về đất ở, đất sản xuất của các bên tranh chấp).
2.2. Thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải
Theo quy định tại Điều 202, Luật Đất đai năm 2013 và quy định tại khoản 2, Điều 88, Nghị định số 43/2014 thì thành phần Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã gồm:
- Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND là Chủ tịch Hội đồng;
- Đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn;
- Tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị;
- Trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn;
- Đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó;
- Cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn.
- Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
2.3 Tổ chức cuộc họp hòa giải
Theo quy định tại khoản 1, Điều 88, Nghị định số 43/2014 thì cuộc họp hoà giải phải có sự tham gia của các bên tranh chấp, thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Do đó, trước khi tổ chức cuộc họp hòa giải, UBND cấp xã phải cử cán bộ gửi thư mời đến tất cả các bên tranh chấp, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và thành viên Hội đồng hòa giải. Và việc hòa giải chỉ được tiến hành khi các bên tranh chấp đều có mặt. Tuy nhiên, cần lưu ý như sau:
- Tại cuộc họp hoà giải lần thứ nhất: Nếu có một bên tranh chấp hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì phải hoãn cuộc họp hòa giải và tổ chức lại cuộc họp hòa giải lần thứ hai. Việc hoãn cuộc họp hòa giải phải lập thành biên bản và ghi rõ lý do hoãn cuộc họp. Do đó, đối với bên tranh chấp hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan việc giao nhận giấy mời phải lập biên bản. Điều này sẽ tranh trường hợp một bên tranh chấp hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khiếu nại cho rằng họ không nhận được giấy mời nhưng lập biên bản là họ vắng mặt không có lý do hoặc cố tình vắng mặt.
- Tại cuộc họp hoà giải lần thứ hai: Trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai thì được coi là việc hòa giải không thành.
2.4. Lập biên bản hòa giải
Theo quy định tại khoản 1, Điều 88, Nghị định số 43/2014 thì kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản, gồm có các nội dung:
- Thời gian và địa điểm tiến hành hòa giải;
- Thành phần tham dự hòa giải;
- Tóm tắt nội dung tranh chấp thể hiện rõ về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất đang tranh chấp, nguyên nhân phát sinh tranh chấp (theo kết quả xác minh, tìm hiểu);
- Ý kiến của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai;
- Những nội dung đã được các bên tranh chấp thỏa thuận, không thỏa thuận.
Biên bản hòa giải phải có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng, các bên tranh chấp có mặt tại buổi hòa giải, các thành viên tham gia hòa giải và phải đóng dấu của UBND cấp xã; đồng thời phải được gửi ngay cho các bên tranh chấp và lưu tại UBND cấp xã. Trường hợp, sau khi thông qua biên bản hòa giải mà một trong các bên đương tranh chấp không đồng ý ký tên vào biên bản hòa giải thì phải lập biên bản để lưu vào hồ sơ giải quyết tranh chấp đất đai.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà các bên tranh chấp có ý kiến bằng văn bản khác với nội dung đã thống nhất trong biên bản hòa giải thành thì Chủ tịch UBND cấp xã tổ chức lại cuộc họp Hội đồng hòa giải để xem xét giải quyết đối với ý kiến bổ sung và phải lập biên bản hòa giải thành hoặc không thành.
Trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới sử dụng đất, chủ sử dụng đất thì UBND cấp xã gửi biên bản hòa giải thành đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết theo quy định tại khoản 5, Điều 202 của Luật Đất đai năm 2013. Cụ thể là:
- Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì UBND cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng TN&MT đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở TN&MT đối với các trường hợp khác.
- Phòng TN&MT, Sở TN&MT trình UBND cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Trường hợp hòa giải không thành hoặc sau khi hòa giải thành mà có ít nhất một trong các bên thay đổi ý kiến về kết quả hòa giải thì UBND cấp xã lập biên bản hòa giải không thành và hướng dẫn các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tiếp theo.
II. Thực trạng công tác hoà giải tranh chấp quyền sử dụng đất tại UBND cấp xã trong thời gian qua.
1. Về công tác xác minh nguồn gốc, quá trình sử dụng đất
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 thì thành phần trong Hội đồng hoà giải phải có đại diện một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất có tranh chấp. Tuy nhiên, thực tế công tác hoà giải tranh chấp quyền sử dụng đất tại UBND cấp xã lại gặp khó khăn ngay chính vấn đề này. Một số hộ dân cư sinh sống lâu đời tại khu vực có đất tranh chấp biết rõ về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất đối với thửa đất tranh chấp là những người không có trách nhiệm công vụ, nên việc họ không tham gia hoặc từ chối tham gia hội đồng sẽ không có chế tài bắt buộc. Mặt khác, việc xác định được người sinh sống lâu đời và biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Đối với các khu vực đô thị hóa nhanh, các mặt bằng tái định cư việc thay đổi nhân khẩu trong khu vực này cũng rất thường xuyên, nên đối tượng sinh sống lâu đời ở các khu vực này rất khó xác định. Đối với khu vực nông thôn thì có thể xác định được người sinh sống lâu đời và biết rõ về nguồn gốc thửa đất có tranh chấp, nhưng việc mời đối tượng này tham gia hòa giải tranh chấp về đất đai cũng không phải dễ, bởi họ ngại va chạm, sợ mất lòng... Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp việc hoà giải tranh chấp về quyền sử dụng đất không có mặt đại diện số hộ dân cư sinh sống lâu đời tại khu vực có đất tranh chấp biết rõ về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất đối với thửa đất tranh chấp hoặc có mặt họ cũng trình bày chung chung thành ra quy định thành phần Hội đồng hoà giải phải có đại diện một số hộ dân cư sinh sống lâu đời tại khu vực có đất tranh chấp biết rõ về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất đối với thửa đất tranh chấp không có nhiều ý nghĩa trên thực tế.
2. Về công tác đo đạc đất tranh chấp
Thông thường trước khi tổ chức hoà giải, công chức địa chính phải tiến hành khảo sát, đo đạc phần đất tranh chấp nhằm xác định sơ bộ diện tích tranh chấp là bao nhiêu mét vuông, phần đất tranh chấp này thuộc thửa đất nào sdo ai đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đứng tên kê khai đăng ký trên sổ mục kê hoặc sổ bộ địa chính. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn trường hợp hồ sơ hoà giải không có biên bản khảo sát đo đạc đất tranh chấp nên tổ hoà giải không có cơ sở để phân tích, thuyết phục các bên tranh chấp từ đó làm giảm tính hiệu quả trong công tác hoà giải.
3. Công tác giao, gửi giấy mời cho các bên tranh chấp, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Để công tác hòa giải có hiệu quả tốt nhất là có mặt hai bên tranh chấp và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, thực tế không phải trường hợp nào bên bị yêu cầu và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng sẵn sàng có mặt theo giấy mời của Hội đồng hoà giải. Mà theo quy định nếu tại cuộc hoà giải lần đầu mà có một bên tranhc hấp hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì phải hoãn. Điều này có nghĩa là hồ sơ hoà giải phải có biên bản hoặc tài liệu gì thể hiện người vắng mặt đã nhận được giấy mời trước khi tổ chức cuộc hoà giải. Thông qua công tác nhận và thụ lý đơn khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất tại Toà án cũng có trường hợp qua xem xét hồ sơ hoà giải tại UBND cấp xã thì biên bản hoà giải ghi đương sự là một bên tranh chấp hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng không có gì chứng minh là họ đã nhận được giấy mời nên Toà án xác định việc hoà giải là chưa đúng quy định nên yêu cầu tổ chức hoà giải lại. Điều này đã gây mất thời gian, chi phí đi lại của người dân và chi phí tổ chức hoà giải lại…
Một vấn đề nữa là việc xác định cho đúng và đầy đủ người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đối với Hội đồng hoà giải tại UBND cấp xã trong nhiều trường hợp là gặp khó khăn nhất định. Bởi vì thực tế có nhiều trường hợp, Hội đồng hoà giải xác định không đúng hoặc mời không đầy đủ người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Vậy trong trường hợp hoà giải nhưng không có mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hoặc thiếu người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì coi việc hoà giải đã đúng trình tự, thủ tục chưa thì hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể.
4. Tổ chức hoà giải
Hiện nay, bên cạnh rất nhiều trường hợp Hội đồng hoà giải tại UBND cấp xã đã tiến hành hoà giải tranh chấp quyền sử dụng đất đảm bảo đúng quy định pháp luật thì còn một số trường hợp tổ chức hoà giải không đúng quy định của pháp luật như: Thành phần Hội đồng hoà giải không tham dự đầy đủ, sau khi hoà giải cho ký tên sau vào biên bản hoà giải; không tổ chức hoà giải trực tiếp giữa hai bên tranh chấp mà chỉ gặp riêng từng bên tranh chấp rồi ghi ý kiến của họ do xác định việc hoà giải chắc chắn không thành; nội dung biên bản hoà giải không thể hiện một cách rõ ràng yêu cầu của các bên tranh chấp là gì mà chỉ ghi chung chung yêu cầu cấp có thẩm quyền xem xét giải quyết theo quy định… Những cách làm như vậy, rõ ràng không đúng quy định của pháp luật. Trong khi việc hoà giải tranh chấp quyền sử dụng đất là thủ tục bắt buộc phải làm và là điều kiện để Toà án xem xét thụ lý đơn khởi kiện.
5. Việc gửi hồ sơ lên Toà án
Hiện nay, pháp luật không có quy định cụ thể ai có trách nhiệm chuyển hồ sơ hoà giải cho Toà án nếu việc hoà giải không thành nên thực tế có nhiều cách làm khác. Có trường hợp công chức tư pháp trực tiếp chuyển cho Toà án, có trường hợp người yêu cầu nộp cho Toà án mà cách làm nào cũng có bất cập nhất định.
Thứ nhất, nếu công chức tư pháp của UBND cấp xã chuyển hồ sơ cho Toà án thì Toà án nhận nhưng không có cơ sở để giải quyết vì chưa có đơn khởi kiện của nguyên đơn nên nhiều trường hợp người dân không biết chờ Toà án mời, còn Toà án thì chờ người dân đến để hướng dẫn làm đơn khởi kiện.
Thứ hai, nếu giao hồ sơ cho người dân chuyển đến Toà án và làm đơn khởi kiện thì có một số trường hợp người yêu cầu cố tình giữ hồ sơ không nộp cho Toà án, không làm đơn khởi kiện nhằm gây khó khăn cho bên bị yêu cầu hoặc có trường hợp trong hồ sơ khởi kiện có tài liệu bất lợi cho họ nên họ bỏ ra ngoài không nộp cho Toà án…
III. Về kiến nghị, đề xuất
Để công tác hoà giải tranh chấp quyền sử dụng đất tại UBND cấp xã đạt hiệu quả, tác giả xin kiến nghị và đề xuất như sau:
Thứ nhất, cần phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến công tác hoà giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã, trong đó quy định rõ nội dung đơn yêu cầu, biểu mẫu đơn yêu cầu, quy định việc xác minh đối với một số hộ dân biết rõ nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất đối với thửa đất tranh chấp; quy định trách nhiệm chuyển hồ sơ hoà giải không thành cho Toà án…
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện và nâng cao kỹ năng giải quyết hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã. Hòa giải tranh chấp đất đai là vấn đề vô cùng khó khăn và phức tạp. Điều này đòi hỏi các thành viên trong Tổ hòa giải phải tìm hiểu quá trình mâu thuẫn cũng như là nắm bắt chính xác tâm tư, nguyện vọng của các bên. Quá trình hòa giải, Tổ hòa giải phải tỏ ra hết sức mềm dẽo, vừa giải quyết tranh chấp trên cơ sở quy định pháp luật nhưng cũng vừa có tình, có lý trên cơ sở tình nghĩa láng giềng, họ hàng, thân tộc. Để làm được việc này đòi hỏi thành viên Tổ hòa giải phải được trang bị một số kỹ năng cần thiết.
Thứ ba, cần tăng cường công tác tổ chức tập huấn về công tác hòa giải về tranh chấp đất đai. Ngoài việc trang bị những kỹ năng cần thiết cho việc hòa giải tranh chấp dất đai thì đòi hỏi công chức cấp xã làm công tác tham mưu, giúp việc cần phải có hiểu biết đầy đủ về các quy định của pháp luật có liên quan đến hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã. Thông qua, công tác tổ chức tập huấn về công tác hòa giải về tranh chấp đất đai sẽ nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong lãnh đạo chỉ đạo công tác hòa giải ở cơ sở để hiểu rõ mục đích và ý nghĩa hết sức to lớn, thiết thực của công tác hòa giải, hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp ngay từ đầu, không để việc nhỏ phát sinh thành việc lớn dẫn đến phức tạp, kéo dài, gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Thứ tư, cần nâng cao trách nhiệm hòa giải tranh chấp đất đai của Tổ hòa giải. Để việc hòa giải đem lại kết quả tốt, vai trò của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai là rất quan trọng. Tuy nhiên, thực tế một số vụ việc hòa giải tranh chấp đất đai thì Hội đồng hòa giải chưa làm hết trách nhiệm của mình, chỉ hòa giải qua loa, chiếu lệ để chuyển hồ sơ đến Tòa án. Do đó, cần có sự quan tâm thích đáng của nhà nước thông qua việc bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp lý, kỹ năng hòa giải cho đội ngũ hòa giải viên. Đồng thời, tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho hoạt động của Hội đồng hòa giải ở cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải.
Thứ năm, cần tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Bởi vì, thực tế cho thấy việc tranh chấp đất đai xuất phát từ nhiều nguyên nhận, trong đó có một nguyên nhân là trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, sự tôn trọng pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hết sức hạn chế. Do đó, việc nâng cao trình độ pháp luật cho nhân dân theo yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật hiện nay đang là vấn đề cấp thiết. Để làm được việc này cần triển khai đồng bộ các hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật: Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, tuyên truyền thông qua các hội nghị, tuyên truyền thông qua công tác hòa giải ở cơ sở, qua tủ sách pháp luật…
Kết luận: Làm tốt công tác hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất sẽ góp phần hạn chế mâu thuẫn về đất đai trong nội bộ quần chúng nhân dân, tăng cường sự đoàn kết gắn bó cũng như tạo sự khắng khít về tình làng, nghĩa xóm, tình thân họ hàng… Với ý nghĩa và vai trò quan trọng như vật của công tác hòa giải tranh chấp đất đai, đòi hỏi mỗi người dân phải nâng cao nhận thức về pháp luật, phát huy truyền thống yêu thương, đoàn kết của người Việt Nam. Đồng thời, Hội đồng hòa giải cũng phải phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trên cơ sở những quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai, các kỹ năng được trang bị, tập huấn, bồi dưỡng… Ngoài ra, chính sách pháp luật về đất đai cũng cần được hoàn thiện hơn.
DƯƠNG TẤN THANH
Học viên cao học Luật Trường Đại học Trà Vinh