/ Trao đổi - Ý kiến
/ Bàn về hành vi trộm cắp tài sản chưa xác định được chủ sở hữu

Bàn về hành vi trộm cắp tài sản chưa xác định được chủ sở hữu

24/10/2025 06:29 |

(LSVN) - N.M.B.A., không có nghề nghiệp. Để có tiền tiêu xài cá nhân và sinh hoạt cho gia đình, trong khoảng thời gian từ ngày 19/10/2024 đến 30/11/2024, B.A. một mình đi bộ từ nhà thuê tại địa chỉ số 346/6/4 đường H., phường N., thành phố Q, tỉnh B. (nay là phường Q., tỉnh G.) qua các tuyến đường trên địa bàn thành phố Q., tỉnh B. (nay là các phường QN., phường Q. thuộc tỉnh G.) để tìm kiếm các xe đạp có sự sơ hở trong công tác quản lý, bảo vệ; đã thực hiện 11 lần hành vi trộm cắp tài sản, giá trị tài sản các lần chiếm đoạt đều trên 2.000.000 đồng. Trong đó, có 10 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt thì tài sản xác định được chủ sở hữu và có 01 lần tài sản không xác định được chủ sở hữu. Viện Kiểm sát truy tố N.M.B.A. về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Đối với tình huống trên, có quan điểm khác nhau về việc định tội danh đối với lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà chưa xác định được chủ sở hữu:

Quan điểm thứ nhất cho rằng:

Hành vi của N.M.B.A. thỏa mãn dấu hiệu trộm cắp tài sản; bởi, trong ý chí và hành vi của A thực hiện đều thể hiện sự lén lún và tài sản bị chiếm đoạt không thuộc quyền sở hữu hợp pháp của A., A. cũng không chiếm hữu ngay tình.

Quan điểm thứ hai cũng là quan điểm tác giả cho rằng:

Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định hành vi trộm cắp tài sản, phải có sự lén lút cả về mặt ý chí và hành vi đối với chủ sở hữu hợp pháp tài sản.

Trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt có căn cứ xác định là vô chủ thì không thỏa mãn về hành vi “lét lút đối với chủ sở hữu” và theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Dân sự thì người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản có quyền sở hữu tài sản đó, như vậy người có hành vi nêu trên không phạm tội.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Trường hợp tài sản bị chiếm đoạt chưa xác định được ai là chủ sở hữu thì phải thực hiện thủ tục xác định chủ sở hữu đối với tài sản bị chiếm đoạt theo quy định tại khoản 2 Điều 228 Bộ luật Dân sự. Mặc dù, xét về mặt ý chí và hành vi chiếm đoạt là không ngay tình theo quy định tại Điều 181 Bộ luật Dân sự, tuy nhiên việc chứng minh có ngay tình hay không thuộc về người nào cho rằng việc chiếm hữu đó không ngay tình. Trong tình huống này, trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng.

Hết thời gian 01 năm theo quy định tại đoạn 4 khoản 2 Điều 228 Bộ luật Dân sự mà không xác định được chủ sở hữu tài sản là động sản thì quyền sở hữu về động sản đó thuộc về người phát hiện tài sản và như vậy người có hành vi lét lút, chiếm đoạt tài sản đó không phạm tội do không đủ dấu hiệu “lén lút đối với chủ sở hữu tài sản” để cấu thành tội phạm. Trường hợp xác định được chủ sở hữu thì hành vi lét lút chiếm đoạt tài sản đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm và cần tiếp tục điều tra, xét xử vụ án.

Trên đây là quan điểm và phân tích, đánh giá của tác giả về việc định tội danh đối với hành vi chiếm đoạt tài sản mà chưa xác định được chủ sở hữu của N.M.B.A.. Rất mong nhận được sự trao đổi ý kiến của bạn đọc, để nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự.

VÕ MINH TUẤN

Tòa án Quân sự Khu vực 1 Quân khu 5

Các tin khác