/ Trao đổi - Ý kiến
/ Bàn về tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức"; tội "Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức"

Bàn về tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức"; tội "Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức"

16/10/2025 06:13 |

(LSVN) - Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, tình hình tội phạm liên quan đến việc làm giả, sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ giả có chiều hướng gia tăng cả về số vụ và tính chất ngày càng nghiêm trọng hơn; phương thức, thủ đoạn phạm tội cũng ngày càng tinh vi hơn, xảy ra trên địa bàn nhiều tỉnh, thành khác nhau.

Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) đã quy định một số dấu hiệu định tội, định khung mới để phù hợp với yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm hiện nay. Tuy nhiên qua thực tiễn xét xử về tội phạm này cho thấy không ít Tòa án còn gặp nhiều vướng mắc, lúng túng và chưa thống nhất trong việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự về loại tội phạm này như. 

Trong bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích một số vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn xét xử.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Thứ nhất, áp dụng pháp luật không thống nhất trong việc xác định thế nào là con dấu, tài liệu giả.

Hiện nay có rất nhiều trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi làm giả tài liệu, giấy tờ; tuy nhiên, khi bị phát hiện và bắt giữ lại không thu giữ được bản gốc tài liệu, giấy tờ giả do các đối tượng kịp thời tiêu hủy mà chỉ có bản photo, bản photo có công chứng, chứng thực. Thực tiễn xét xử hiện nay, có Tòa án vẫn xác định các bản photo, bản photo có công chứng, chứng thực là tài liệu giả và xét xử các bị cáo về hành vi làm giả tài liệu; song cũng có Tòa án không xác định bản photo, bản photo có công chứng, chứng thực là tài liệu giả nên không sử dụng các tài liệu này làm căn cứ xác định các bị cáo có hành vi làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức bởi tài liệu, giấy tờ giả mà không thu giữ được tài liệu gốc, không có kết luận giám định tài liệu, giấy tờ đó là giả hay thật thì không có căn cứ để buộc tội đối với hành vi quy định tại Điều 341 BLHS năm 2015.

Thứ hai, chưa có văn bản hướng dẫn đối với dữ liệu điện tử bị chỉnh sửa chưa được in ra thì có xác định là tài liệu giả hay không.

Theo quy định hiện hành, đối với các tài liệu giả về nội dung, giả về hình thức thì được xác định tài liệu giả; hay đối với tài liệu phô tô được chỉnh sửa nếu được chứng thực bởi cơ quan có thẩm quyền và có thể sử dụng để thực hiện hành vi phạm pháp luật thì cũng được coi là tài liệu giả. Tuy nhiên đối với dữ liệu điện tử bị chỉnh sửa (chưa in ra) là một loại tài liệu mới thì lại chưa có hướng dẫn nào cho trường hợp này.

Thứ ba, về việc xác định thế nào là “Thực hiện hành vi trái pháp luật” vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau.

Có ý kiến cho rằng hành vi trái pháp luật có thể là trái các quy định pháp luật nói chung (kể cả pháp luật dân sự, pháp luật hành chính…) chứ không chỉ là pháp luật hình sự.

Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng, vì khách thể của tội phạm này là xâm phạm trật tự quản lý hành chính nên người thực hiện hành vi làm giả con dấu, tài liệu hoặc sử dụng con dấu giả, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật hình sự thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 341. Còn thực hiện hành vi sử dụng tài liệu giả mà không nhằm thực hiện tội phạm thì chỉ bị xử lý hành chính.

Ngoài ra, cách viết của nhà làm luật tại khoản 1 Điều 341 BLHS: “Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật...” dẫn đến cách hiểu là tình tiết “thực hiện hành vi trái pháp luật” chỉ gắn với hành vi sử dụng con dấu, tài liệu giả không gắn với hành vi làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức. Nghĩa là, hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức không bắt buộc phải gắn với yếu tố “thực hiện hành vi trái pháp luật” thì mới bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này cũng dẫn đến việc áp dụng pháp không thống nhất giữa các Tòa án.

Mặc dù BLHS năm 2015 đã có hiệu lực thi hành được gần 08 năm và được sửa đổi, bổ sung năm 2025 tuy nhiên vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành nào hướng dẫn cũng như giải thích pháp luật về các quy định còn vướng mắc về tội phạm này. Vì vậy, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, tác giả đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự để áp dụng thống nhất pháp luật vào thực tiễn xét xử như sau:

Một là, cần có hướng dẫn cụ thể về hành vi “làm giả” hoặc “sử dụng” trong tội này.

Điều 341 BLHS quy định “Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt…”. Điều đó có nghĩa là yếu tố “thực hiện hành vi trái pháp luật” chỉ được quy định gắn với hành vi “sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả” chứ không gắn với hành vi “làm giả con dấu, tài liệu”.

Do vậy, hành vi “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” không bắt buộc phải gắn với yếu tố “thực hiện hành vi trái pháp luật” và phải bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hai là, cần có hướng dẫn về định tội danh trong từng trường hợp cụ thể như sau: Trường hợp bị cáo chỉ có hành vi làm giả để cung cấp cho đối tượng khác sử dụng thực hiện hành vi trái pháp luật, bị cáo bị truy tố, xét xử về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Trường hợp bị cáo chỉ có hành vi sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả (không có hành vi làm giả) để thực hiện hành vi trái pháp luật thì bị truy tố, xét xử về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Trường hợp bị cáo có hành vi làm giả, sau đó sử dụng giấy tờ giả này để thực hiện hành vi trái pháp luật cần bị truy tố, xét xử về tội danh đầy đủ là “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.

Trường hợp bị cáo có hành vi sử dụng giấy tờ giả để gian dối chiếm đoạt tài sản, thì cần bị truy tố, xét xử về hai tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Trường hợp bị cáo có các hành vi làm giả, sử dụng con dấu, tài liệu giả này để gian dối chiếm đoạt tài sản, thì cần bị truy tố, xét xử về hai tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Đối với hành vi cung cấp thông tin của chính bản thân mình để thuê làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức, sau đó đặt mua tài liệu giả để thực hiện hành vi trái pháp luật thì chỉ cấu thành tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức” mà không thuộc trường hợp đồng phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” bởi họ không trực tiếp làm giả tài liệu và ý thức chủ quan của người đặt mua tài liệu giả đó về nhằm mục đích để sử dụng, giữa người đặt mua và người trực tiếp làm ra tài liệu giả không có mối quan hệ gì, không có thỏa thuận gì trước về việc mỗi người sẽ thực hiện một công đoạn trong việc làm ra tài liệu giả để bán lại cho người khác.

Ba là, cần có hướng dẫn cụ thể về việc xác định thế nào là “Thực hiện hành vi trái pháp luật” quy định tại khoản 1 Điều 341 theo hướng hành vi trái pháp luật được hiểu là hành vi trái pháp luật nói chung mà không nhất thiết phải là tội phạm. Trường hợp trái pháp luật hình sự, đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì bị xử lý theo quy định tại điểm d khoản 2 (sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng) hoặc điểm b khoản 3 (sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng).

Trong trường hợp đối với các hành vi lưu giữ con dấu, tài liệu giả nhưng không sử dụng hoặc việc sử dụng con dấu, tài liệu không nhằm mục đích để thực hiện hành vi trái pháp luật thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà căn cứ vào các quy phạm pháp luật tương ứng để điều chỉnh.

Thực tiễn xét xử tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan tổ chức trong thời gian qua cho thấy các vụ án đều có tính chất phức tạp, người phạm tội sử dụng cách thức tinh vi để làm giả giấy tờ tài liệu và các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật về Điều 341 BLHS còn hạn chế nên việc áp dụng các quy định pháp luật về loại tội này chưa được thống nhất, gây ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả của hoạt động xét xử loại tội phạm này. Do đó, vấn đề hoàn thiện pháp luật về tội phạm này một hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Điều 341 BLHS là yêu cầu tất yếu của thực tiễn, nhằm bảo đảm công tác quản lý hành chính của nhà nước, bảo đảm quyền lợi cho mỗi người dân. Từ đó, cũng nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan tổ chức tại các Tòa án.

Thạc sĩ NGUYỄN THỊ MAI

Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội

Các tin khác