Điều đặc biệt, Hiến pháp còn là kim chỉ nam để hệ thống pháp luật của quốc gia đó phải tuân theo. Khoản 1 Điều 119 Hiến pháp quy định: “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”. Nội dung trên đã thể hiện rõ nét đường lối và quan điểm của Đảng, Chính phủ ta về công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải thực hiện “Nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam”.
Trước hết, theo Điều 2 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 thì “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục theo quy định của Luật này”. Việc ban hành một văn bản quy phạm pháp luật tức là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc được nhà nước trao quyền, theo trình tự chặt chẽ tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện xây dựng, thẩm định, thông qua, công bố….để một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành trên thực tế.
Như vậy, nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay được hiểu là đảm bảo các văn bản quy phạm pháp luật khi được ban hành ra có hiệu lực thi hành trên thực tế đều phải tuân theo các quy định của hiến pháp trên ba khía cạnh đó là: Tuân theo Hiến pháp về mặt nội dung; Tuân theo tinh thần của Hiến pháp; Không trái với các quy định của Hiến pháp.
Qua hơn 30 năm cải cách và đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã đạt những thành tựu to lớn, “Hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản”(1), đặc biệt kỹ năng lập pháp đã được nâng cao, tốc độ xây dựng, thông qua và ban hành, áp dụng văn bản quy phạm pháp luật đã được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, theo Báo cáo số 203/BC-BTP của Bộ Tư pháp ngày 09/5/2024 về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hóa hệ thống quy phạm pháp luật năm 2023 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2024 có nêu: “Năm 2023, các bộ, cơ quan ngang bộ (gồm cả Bộ Tư pháp) và UBND cấp tỉnh, cấp huyện đã tiếp nhận, phân loại theo thẩm quyền đối với 12.718 văn bản QPPL, trong đó các bộ, cơ quan ngang bộ là 7.178 văn bản với 5.237 văn bản ban hành trong năm 2023; các địa phương là 5.540 văn bản (gồm 3.331 văn bản cấp huyện, 2.209 văn bản cấp xã) với 4.599 văn bản ban hành trong năm 2023; theo đó đã kết luận, kiến nghị xử lý đối với 482 văn bản, gồm 390 văn bản QPPL có quy định trái pháp luậtvề nội dung, thẩm quyền ban hành (trong đó có 152 văn bản ban hành trong năm 2023) và 92 văn bản không phải là văn bản QPPL nhưng có chứa QPPL (trong đó có 46 văn bản ban hành trong năm 2023). Số văn bản có quy định trái pháp luật được kết luận tăng 05 văn bản so với năm 2022.
Riêng đối với Bộ Tư pháp, trong năm 2023, đã tiếp nhận, phân loại đối với 4.112 văn bản (gồm 488 văn bản của các bộ, cơ quan ngang bộ; 3.624 văn bản của HĐND và UBND cấp tỉnh), qua đó đã kết luận, kiến nghị xử lý đối với 162 văn bản có quy định trái pháp luật về thẩm quyền, nội dung (gồm 31 văn bản của các bộ, cơ quan ngang bộ; 131 văn bản của HĐND và UBND cấp tỉnh)” (2).
Số liệu trên đã cho thấy công tác ban hành văn bản còn nhiều hạn chế và bất cập, đó là các văn bản pháp luật ban hành không chỉ thiếu tính bao quát, không bắt kịp tốc độ phát triển kinh tế xã hội mà còn yếu và thiếu. Yếu về chất lượng khi các văn bản pháp luật còn chồng chéo nhau, đó là cùng một vấn đề được quy định tại nhiều văn bản, có đôi khi các văn bản quy định về một vấn đề mâu thuẫn nhau dẫn đến không biết nên áp dụng văn bản nào. Thiếu là khi một sự kiện pháp lý phát sinh chúng ta không có văn bản pháp luật để áp dụng mặc dù nó vẫn tồn tại, vẫn có tranh chấp, chẳng hạn đơn cử như về vấn đề biểu tình, tiền ảo, đầu tư ngoại hối điện tử, trí tuệ nhân tạo.

Luật sư Nguyễn Hồng Tâm.
Chính những tồn tại trên cho thấy cần phải hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và ban hành văn bản pháp luật, thúc đẩy hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật khi áp dụng thực tiễn.
Xác định để xảy ra các thực trạng trên, nguyên nhân chủ yếu là:
Thứ nhất, thiếu bộ tiêu chí đánh giá tính hợp hiến, không có phương pháp đo lường và cơ chế phân tích cơ chế phân tích tác động về quyền con người, quyền công dân một cách bắt buộc. Điều này dẫn đến tình trạng mỗi cơ quan soạn thảo, thẩm định có cách hiểu và áp dụng khác nhau, thiếu sự thống nhất.
Thứ hai, cơ chế giám sát và phản biện xã hội trong quá trình xây dựng, đặc biệt là giai đoạn lấy ý kiến chưa thực sự mạnh, nhiều nơi còn mang tính hình thức, cho đủ thủ tục dẫn đến nhiều văn bản ban hành không phù hợp thực tiễn, thậm chí trái với ý chí nguyện vọng của nhân dân, xâm phạm đến lợi ích cơ bản của các đối tượng bị tác động, đôi khi còn gây tác động đến đời sống của Người dân.
Thứ ba, nguồn lực thực hiện công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn yếu và thiếu, ở nhiều nơi, nhiều đơn vị chỉ có 1 đến 2 cán bộ phụ trách lĩnh vực này, trong khi đó công tác đào tạo, hướng dẫn, huấn luyện về chuyên môn chưa được chú trọng dẫn đến đội ngũ phụ trách không những thiếu mà còn rất yếu.
Thứ tư, ở nhiều cơ quan, đơn vị chưa chú trọng văn hóa lập pháp, còn hành chính hóa công tác lập pháp, thực hiện theo ý kiến chỉ đạo của cấp trưởng, người đứng đầu. Việc lập pháp chỉ nhằm giải quyết vấn đề tồn tại trước mắt mà thiếu tính dự báo các tình huống pháp lý có thể xảy ra dẫn đến khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý các tình huống đang xảy ra thì không vi hiến nhưng những tình huống trong tương lai lại có thể vi hiến.
Thứ năm, việc phân cấp phân quyền còn chưa rõ ràng, gây hiểu lầm về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật dẫn đến các văn bản ban hành trái thẩm quyền, chồng chéo, thậm chí văn bản hướng dẫn lại quy định ngược lại văn bản được hướng dẫn. Đây là điều hết sức nguy hiểm, đi ngược lại khoa học pháp lý.
Để khắc phục tình trạng vi hiến trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì chúng ta cần phải áp dụng các giải pháp sau:
Đầu tiên, cần phải hoàn thiện quy định pháp luật, có quy định cụ thể bộ tiêu chí đánh giá tính hợp hiến, có quy chuẩn rõ ràng, có phương pháp đo lường cụ thể để mỗi văn bản quy phạm pháp luật ban hành có điểm đánh giá về bảo đảm nguyên tắc tính hợp hiến. Bên cạnh đó cũng cần hoàn thiện quy định về giám sát, kiểm tra, xử lý các văn bản trái luật nhanh chóng, tránh gây tác động lớn cho xã hội, người dân, đặc biệt đối với những văn bản xâm phạm về quyền con người, quyền công dân, tác động lớn đến đời sống nhân dân. Không những thế, cũng cần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan xây dựng, thẩm định, thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật, quy định nghiêm trách nhiệm của những cá nhân, đơn vị để xảy ra các vi phạm dẫn đến ban hành văn bản vi hiến.
Thứ hai, cần hoàn thiện, nâng cao năng lực và đội ngũ chuyên môn thực hiện công tác xây dựng, thẩm định, thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật. Tăng cường chất lượng thẩm định và thẩm tra. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, thông tin và xây dựng cơ sở dữ liệu pháp luật hiện đại.
Thứ ba, nâng cao chất lượng phản biện xã hội trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tăng cao chất lượng và số lượng các cuộc hội thảo khoa học trước khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, lấy ý kiến của các nhà khoa học pháp lý, đặc biệt là ý kiến của những đối tượng chịu tác động của các văn bản quy phạm pháp luật đang xây dựng.
Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở trao đổi kinh nghiệm lập pháp, học hỏi những tinh hoa của các nước bạn bè quốc tế, đặt dưới không gian, hoàn cảnh, điều kiện kinh tế, chính trị phù hợp với Việt Nam.
Hi vọng với những giải pháp trên thì chúng ta sẽ không ngừng nâng cao chất lượng trong công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và đảm bảo công lý, công bằng xã hội.
(1) Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
(2) Bộ Tư pháp, Báo cáo số 203/BC-BTP của Bộ Tư pháp ngày 09/05/2024 về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hóa hệ thống quy phạm pháp luật năm 2003 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2024.
Luật sư NGUYỄN HỒNG TÂM

