Những vấn đề lý luận
Khái niệm
Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe dọa đến quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khoẻ, của con người.
Về định nghĩa định tội danh hiện nay các nhà các làm luật, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau. Mặc dù có những cách diễn đạt khác nhau, tuy nhiên, có thể thấy điểm chung là đều thống nhất ở việc ghi nhận định tội danh là việc xác định về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi phạm tội đã xảy ra trong thực tế hay nói cách khác là xác định xem các hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội thực hiện trên thực tế có thỏa mãn các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm tương ứng được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS).
Tác giả có quan điểm như sau: Định tội danh các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người là hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật do các cơ quan chức năng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành, trên cơ sở phân tích, đối chiếu, so sánh các hành vi nguy hiểm cho xã hội trên thực tế với các yếu tố cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người được quy định trong BLHS.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Đặc điểm, nội dung
Về đặc điểm của việc định tội danh, theo tác giả, từ định nghĩa nêu trên thì định tội danh có các đặc điểm sau:
- Là sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, cụ thể là việc xác định xem hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện có thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe trong BLHS hay không và đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý đối với hành vi đó.
- Là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trên cơ sở xác định các tình tiết của hành vi phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe đã thực hiện.
Về nội dung của việc định tội danh, khi hành vi của một người được thực hiện mà gây thiệt hại cho xã hội thì cần xác định xem hành vi đó đã thoả mãn các yếu tố cấu thành của một tội nào được quy định trong phần chung của BLHS để buộc người đó phải chịu chế tài (hình phạt) pháp lý nghiêm khắc. Để thực hiện điều đó, đòi hỏi chủ thể định tội danh phải tiến hành định tội danh đối với hành vi gây nguy hại cho xã hội. Tuy nhiên, để thực hiện việc định tội danh thì cần thực hiện những nội dung nào? Thực tiễn áp dụng pháp luật, khi một hành vi gây nguy hại cho xã hội, chủ thể có thẩm quyền cần xác định những việc như sau:
- Hành vi gây nguy hiểm đã được thực hiện có cấu thành tội phạm hay không, hay chỉ là những vi phạm pháp luật hành chính, pháp luật dân sự… Để đi tìm cho câu trả lời này, chủ thể định tội danh phải dựa vào khái niệm chung về tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS và những quy phạm cụ thể quy định về tội phạm. Ví dụ: Một người dùng dao cố ý đâm gây thương tích cho người khác thì cần xác định xem hành vi đó có cấu thành tội phạm hay không?
- Khi xác định được hành vi đó là tội phạm thì phải xem xét hành vi đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gì được quy định trong phần các tội phạm, theo điều khoản nào của BLHS quy định tương ứng về tội đó. Thực tiễn cho thấy, một hành vi sẽ cấu thành một tội tương ứng, nhưng có khi một hành vi lại cấu thành nhiều tội.
Ví dụ: Một người dùng súng quân dụng bắn chết một người. Mặc dù chỉ có một hành vi là giết người, nhưng người đó lại phạm vào hai tội là “Giết người” theo Điều 123 BLHS và tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo Điều 304 BLHS.
Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy, tuy một hành vi được thực hiện nhưng để xác định được tội danh đối với hành vi đó là không đơn giản. Bởi vì hành vi đó có sự tranh chấp giữa tội này với tội khác. Thường có sự tranh chấp giữa tội "Giết người" với tội "Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người"; giữa tội "Giết người" với tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh"; giữa tội "Cố ý gây thương tích" với tội "Cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh"; giữa tội "Giết người" với tội "Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng"…
Như vậy, để xác định tội danh được chính xác, chủ thể định tội danh cần phải xem xét, đánh giá cẩn trọng, kỹ lưỡng hành vi đó trong không gian, thời gian, địa điểm, phương tiện, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội và đối chiếu hành vi đó thoả mãn yếu tố của một cấu thành tội phạm nào là phù hợp nhất.
Các giai đoạn định tội danh
Định tội danh các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác là cơ sở và là tiền đề cho hoạt động áp dụng pháp luật. Đó là quá trình xác định sự giống nhau, sự trùng lặp giữa các tình tiết cơ bản, điển hình của một hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng được quy định trong BLHS.
Theo nhóm tác giả, các giai đoạn cụ thể của quá trình định tội danh các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người như sau:
Bước 1: Thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diên chứng cứ chứng minh sự thật của các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người.
Bước 2: So sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ án đã được làm rõ với quy định của BLHS về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người.
Bước 3: Đưa ra kết luận về tội danh người phạm tội đã thực hiện theo các điều, khoản trong BLHS về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người.
Những vướng mắc khi xét xử một số tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người
Định tội danh tội giết người có hậu quả thương tích xảy ra và tội cố ý gây thương tích
Ví dụ: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 08/5/2024, Nguyễn Công H., Nguyễn Duy B. ngồi chơi ở quán nước nhà bà A. trên địa bàn xã C, huyện Q, thành phố N. Lời qua tiếng lại, H. phát sinh mâu thuẫn với B., sau đó B. đã chửi bới và đánh H. Bị kích động bởi hành vi trên, H. đã về nhà lấy dao đi tìm B. để đánh cho chừa thói ngông cuồng. Khi đi đến đoạn đường đầu làng, H. thấy B và Phạm Văn P. đang đứng nói chuyện với nhau nên đã xông vào tấn công. H. chém một nhát ngang, B. đưa tay đỡ khiến phần lưỡi dao găm vào vùng thái dương. Thấy vậy anh Phạm Văn P. và người dân xung quanh đã can ngăn, vứt dao của H. ra xa. Sau khi được can ngăn, H. bỏ về nhà còn nạn nhân B. thì được đưa đi cấp cứu, kết quả giám định thương tật lên đến 15%.
Hiện có hai nhóm quan điểm khác nhau về việc xác định tội danh đối với hành vi H. có phải là tội "Giết người" hay là tội "Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác"?
Quan điểm thứ nhất cho rằng: H. phạm tội “Giết người” với lỗi cố ý trực tiếp. Do H. đã dùng hung khí có khả năng gây sát thương chém vào vùng trọng yếu trên cơ thể của bị hại, hậu quả chết người chưa xảy ra do nạn nhân đã được đưa đi cấp cứu, H. không chủ động chấm dứt hành vi nguy hiểm, do nguyên nhân khách quan (được can ngăn và tước hung khí) nên mới phải miễn cưỡng ngừng lại. Do đó, lỗi của H. được suy đoán là cố ý tước đoạt mạng sống.
Quan điểm thứ hai – đây cũng là quan điểm của tác giả: H. phạm tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” mới đảm bảo đúng tính chất, đặc điểm của hành vi phạm tội và diễn biến sự việc vì cho rằng hành vi của H. không có ý thức cố ý tước đoạt mạng sống của bị hại và hậu quả làm cho người khác chết chưa xảy ra.
Về hành vi khách quan trong vụ án chưa thể xác định được rằng H. có nhắm vào đầu – vùng trọng yếu trên cơ thể hay không. Tuy nhiên, việc lưỡi dao chém vào thái dương có một phần tác động từ hành động giơ tay lên đỡ của nạn nhân khiến lực bị đổi hướng. Thêm vào đó, H. chỉ chém duy nhất một nhát rồi chấm dứt, không thực hiện một cách quyết liệt, cường độ tấn công không dồn dập, tốc độ tấn công không nhanh, nhịp độ tấn công không liên tục. Khác hẳn với việc dùng vũ khí để giết người – phải thực hiện rất quyết liệt, tàn nhẫn với cường độ mạnh, liên tục cho đến khi nạn nhân chết hoặc được cho là chết. Với một tính chất, mức độ không quá quyết liệt như đã nêu, có thể khẳng định H không hướng đến hậu quả chết người mà chỉ nhằm gây tổn thương cho cơ thể của B.
Về mục đích thì H. tấn công B. nhằm mục đích “đánh cho B. chừa thói ngông cuồng” chứ không nhằm tước đoạt mạng sống của.
Về yếu tố lỗi: Việc H. chỉ chém một nhát, sau khi được can ngăn và tước vũ khí đã ngay lập tức dừng hành vi của mình lại. Điều này khẳng định bị cáo không quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng, không tìm mọi cách để tước đoạt bằng được mạng sống của nạn nhân. Khi được can ngăn, H. cũng không đe dọa, thách thức, chống trả hoặc giằng giật. Đồng thời cũng không chạy đi tìm vũ khí để quay lại tấn công bằng được, tiếp tục hành vi phạm tội.
Do đó, hành vi của H. không phải là giết người bởi vì trong trường hợp này, H. không mong muốn hậu quả chết người xảy ra, không quyết tâm bằng được tước đoạt mạng sống của bị hại và bị hại cũng chỉ tổn thương cơ thể 15%. Từ những phân tích trên, nhận thấy hành vi của H. vi thỏa mãn cấu thành tội phạm của tội "Cố ý gây thương tích".
Định tội danh tội "Giết người" với tội "Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người"
Ví dụ: Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 05/4/2024, A. và B. đi làm về ghé quầy tạp hóa để mua món nhậu thì gặp nhóm thanh niên gồm K., V. và một số thanh niên khác đang ngồi uống bia ở đấy. Do có quen biết một số người nên A. có nói: “Mấy thằng em đang uống bia à?” và ngồi vào ghế trong bàn.
Nghe A. nói vậy, K. hỏi lại: "Ông có quen biết ai ở đây không mà lại xưng hô mấy thằng em?”. A. trả lời: “Có biết em là con cô T.”. K. lại nói: “Mới đi làm về thì mua thùng bia mấy anh em uống cho vui”. A. trả lời: “Anh không uống bia, anh chỉ uống rượu, qua nhà anh ngồi nhậu”. Nghe A. nói, K. không đồng ý và nói: “Giờ qua nhà thì phiền lắm, giờ này để bố mẹ ông nghỉ ngơi”. Nghe K. nói vậy thì A. nói với B. gọi bia ra uống cùng với cả nhóm. Trong quá trình ngồi nhậu, A. có gọi anh – mấy thằng em với những người còn lại, trong đó có một người lớn tuổi hơn A. K. lại nói với A.: "Ông mấy tuổi mà xưng anh?”. A.?nghe vậy thì nói: “Anh không biết, anh xin lỗi”. Nói rồi A. rót bia vào 2 ly mời người anh lớn tuổi hơn A. uống.
Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, chủ quán nói cả nhóm đi về để đóng quán. Cả nhóm đứng dậy thanh toán rồi ra ngoài đường phía trước quầy tạp hóa đứng chơi. K. lại đi tới chỗ A. hỏi: “Sao ông hỗn vậy?”. Nói rồi, K. vung tay phải đấm vào mặt bên trái A., bị bất ngờ và đau, A. ngồi xuống hai tay ôm mặt. Nhóm thanh niên thấy vậy, can ngăn, kéo K. ra xa, K. ngồi xuống bên đường. Một lúc sau, A. đứng dậy chạy tới chỗ K. và hỏi: "K. ơi, sao em đánh anh?”. V. thấy vậy thì chạy tới xô A. bằng 2 tay nhưng A. không ngã, nhóm thanh niên lại tới kéo V. ra. Trong khi đó, K. lại tiếp tục nhảy vào đấm vào mặt trái của A. một cái nữa làm A. ngã nằm nghiêng xuống đường. K. tiếp tục lấy chân phải đạp vào đầu A., nhóm thanh niên tiếp tục kéo K. ra thì K. lại dùng chân phải đá vào phần trước mặt A. một cái nữa. V lại chạy vào đá liên tiếp 02 cái vào ngực A. Thấy A. bị bất tỉnh, mặt mũi ra nhiều máu, 2 thanh niên trong nhóm lấy xe mô tô đưa A. đi cấp cứu nhưng A. đã tử vong trên đường đi.
Tại Bản kết luận giám định pháp y xác định nguyên nhân chết của A.là: Chấn thương sọ não (dấu hiệu chính qua giám định: Chấn thương sọ não, thái dương đỉnh phải, chẩm phải và thái dương đỉnh trái có các khối sưng nề, trên nền khối sưng nề có bầm tụ máu; tổ chức dưới da và vùng thái dương hai bên bầm tụ máu; tụ máu lan tỏa dưới màng cứng vùng thái dương, đỉnh, chẩm bán cầu đại não hai bên, tụt hạnh nhân tiểu não).
Về tình huống này, có các quan điểm khác nhau về việc xác định tội danh đối với các bị cáo K, V:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: K. và V. phạm tội “Cố ý gây thương tích” với hậu quả dẫn đến chết người vì cho rằng hành vi của K. và V. không có ý thức cố ý tước đoạt mạng sống của bị hại, việc bị hại chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan của các bị cáo.
Trong tình huống trên, K, V thực hiện hành vi khi đã uống bia rượu, tuy nhiên theo quy định tại Điều 13 BLHS năm 2015, thì K, V. vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Xét hành vi của K và V thì thấy rằng hành vi xuất phát từ mâu thuẫn của K, V với A xung quanh việc xưng hô không lịch sự, hai bên có nói qua nói lại với nhau về vấn đề này, nhưng không thể dung hòa mâu thuẫn. Trong trường hợp này, K thực hiện hành vi bằng tay không mà không dùng hung khí, thực hiện các hành vi như đấm vào mặt, đạp vào đầu, đá vào mặt là những hành vi tương tự như với hành vi cố ý gây thương tích, hơn nữa, trong lúc xảy ra xô xát thì K và A có nói qua nói lại, đôi co với nhau xoay quanh vấn đề mâu thuẫn lúc mới gặp. Như vậy, K chỉ muốn dằn mặt, cảnh cáo A chứ không hề muốn tước đoạt tính mạng của A, một phần cũng có thể vì men bia rượu dẫn đến hạn chế một phần năng lực hành vi. Xét trường hợp nếu K muốn tước đoạt tính mạng của A thì có thể thực hiện ngay từ lúc nảy sinh bực tức (gọi là lỗi cố ý đột xuất), hoặc sau lúc cùng ngồi uống bia với nhau rồi ra ngoài đường trước quán tạp hóa, rõ ràng K có đủ điều kiện để chuẩn bị mọi thứ thuận tiện cho việc tước đoạt tính mạng của A (gọi là lỗi cố ý có dự mưu). Cần phải cân nhắc rằng, trong trường hợp giết người, K phải thực hiện một loạt hành vi một cách mãnh liệt hơn nữa, vì hành động cố ý gây thương tích và hành động cố ý tước đoạt tính mạng khác nhau về tính chất, mức độ; hơn nữa, hành vi của K đã có sự gián đoạn, vì bị ngăn cản, tuy đây không phải là ý muốn chủ quan của K nhưng khi bị ngăn cản, K đã có sự chấp thuận ngăn cản và ngồi xuống đường. Nếu như thực sự muốn tước đoạt tính mạng của A, K đã không có sự dừng lại giữa chừng mà phải thực hiện đến cùng dù bị ngăn cản. Việc A chết là nằm ngoài mong muốn của K và V.
Quan điểm thứ 2 - đây cũng là quan điểm của tác giả: K và V phạm tội “Giết người” vì trong thực tiễn xét xử, nhiều trường hợp những người tiến hành tố tụng cho rằng nếu hành vi phạm tội (tương tự như cố ý gây thương tích: Đấm, đá, đâm, chém…) làm cho nạn nhân chết ngay tại chỗ, hoặc sau vài giờ mới chết thì nên truy tố về tội “Giết người”. Cần phải căn cứ vào hành vi, hậu quả và mối quan hệ biện chứng giữa hành vi và hậu quả để định tội danh. K và V có thái độ hung hãn và thực hiện hành vi tới cùng (K lại tiếp tục nhảy vào đấm vào mặt trái của A một cái nữa làm A ngã nằm nghiêng xuống đường. K tiếp tục lấy chân phải đạp vào đầu A, nhóm thanh niên tiếp tục kéo K ra thì K lại dùng chân phải đá vào phần trước mặt A một cái nữa. V lại chạy vào đá liên tiếp 02 cái vào ngực A). Trong trường hợp này, A đã tử vong trên đường được đưa đi cấp cứu nên cần phải truy tố về tội “Giết người”.
Định tội danh tội "Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng" và tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh"
Ví dụ: Vào buổi sáng 10/9/2023, khi Nguyễn Thanh H. đi vắng, ở nhà chỉ có một mình A. (vợ của H. ở nhà) thì Hồ Văn L. uống rượu và đến chọc ghẹo, đòi giao cấu với A. nhưng A. không đồng ý, L. lôi A. vào buồng định cưỡng ép giao cấu nhưng chị Ala lên. Rất may là bà B. (mẹ H.) đang bên nhà ông M. (hàng xóm) chạy về nhà kịp thời và đuổi L. về.
Vào khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, H. đi chơi về gặp Phan Văn P. đến rủ H. uống rượu tại nhà H. Đến khoảng 13 giờ, H., P., A. (vợ H.) đang ngồi trên chiếc giường uống nước thì Hồ Văn L. đến. Thấy L. say rượu, H. kêu L. uống nước, L. không uống mà đến nằm lên chiếc giường, đồng thời đưa chân gác lên đùi của A. (A. đang ngồi cùng H. ở giường đối diện), L. nói: “A., mày cho tao hôn một cái”.
H. mới nói: “Mày làm gì kì vậy, nó là vợ tao” và H. nói tiếp: “Sao hồi sáng mày đến đè vợ tao và lôi nó vào buồng?’, L. hỏi ai nói, H. trả lời: “A. nói”. Thế là L. nhào tới tát vào mặt A., dùng chân đá vào bụng Thu. H. can ngăn thì L. đánh luôn H., hai bên xô xát nhau. H. chạy ra ngoài sân, L. rượt đánh tiếp, H. nói: “Tao còn bà già chứ không tao chơi với mày lâu rồi”. Khi bà B. từ nhà ông M. về tới, hỏi L.: “Con tao làm gì mà mày đánh con tao” thì L. xô bà B. ngã. Ông M. chạy sang can ngăn và kêu L. về nhà nghỉ, nhưng L. không về mà tiếp tục xô đẩy đánh bà B. và đuổi đánh H.
Lúc này H. chạy vào nhà lấy cây dao (loại dao dùng để phát cỏ) chém một nhát vào vùng gáy bên cổ trái của L. Ông M. đứng dậy ngăn H. nhưng H. tiếp tục chém thêm một nhát nữa trúng vào đầu L. Ông M. hoảng sợ chạy về nhà. Còn H tiếp tục chém nhiều nhát vào cơ thể của L. và dùng dao cắt đứt cổ L., sau đó H. cầm dao đến Công an tự thú và giao nộp con dao gây án.
Hiện có các quan điểm về định tội danh như sau:
Quan điểm thứ nhất: Hành vi của Hồ Văn L. là hành vi “nhào tới tát vào mặt A., dùng chân đá vào bụng A.”, “đánh H., rượt đuổi H.”, “xô ngã bà B.”, “đẩy đánh bà B.” xâm phạm sức khỏe của con người, là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của L. đối với H., chị A. và bà B. H. chạy vào nhà lấy cây dao chém một nhát vào vùng gáy bên cổ trái của L. Tuy đã được ông M can ngăn H. nhưng H. tiếp tục chém thêm một nhát nữa trúng vào đầu L., H. tiếp tục chém nhiều nhát vào cơ thể của L. và dùng dao cắt đứt cổ L. Như vậy, các hành vi của H. thỏa mãn cấu thành tội phạm tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo quy định tại khoản 1 Điều 125 BLHS.
Quan điểm thứ hai – cũng là quan điểm của tác giả: H phạm tội “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”.
Trong thực tiễn có thể xảy ra trường hợp người phạm tội "Giết người" vừa có yếu tố vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng vừa có yếu tố tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Điểm khác với người bị hại của tội phạm "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" là trong trường hợp phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì hành vi của người bị hại chưa kết thúc mà đang tiếp tục gây thiệt hại, đang diễn ra trên thực tế hoặc có thể trong tình trạng đe dọa tức khắc xâm phạm các lợi ích hợp pháp nên người phạm tội là người đang được quyền phòng vệ chính đáng.
Như vậy, điểm khác nhau cơ bản quan trọng qua lý luận và phân tích các vụ án thực tế cho thấy, người phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng đang có quyền phòng vệ chính đáng, tức là phải chứng minh được hành vi của người bị hại đang gây thiệt hại cho các lợi ích hợp pháp hoặc đang đe dọa tức khắc gât ra thiệt hại nhất định và hành vi của người phạm tội là nhằm ngăn ngừa hành vi gây thiệt hại chứ không phải do ức chế về tâm lý, do uất ức không thể kiềm chế mà thực hiện hành vi giết người. Nếu đồng thời có cả hai yếu tố phòng vệ chính đáng và trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì phải xem xét tội danh theo hướng có lợi cho bị cáo, đó là tội "Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng".
Trong vụ án trên, khi đó H. đang có quyền phòng vệ chính đáng khi Hồ Văn L. đang tiếp tục đánh H., đang tấn công bà L. (mẹ của H.) tại nhà của mình và vì để ngăn chặn hành vi L. đánh bà mẹ, bảo vệ chính bản thân mình H. được quyền phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên H đã dùng dao chém L. và hành vi chém L. là hành vi vượt quá mức cần thiết, hậu quả L. chết là vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép phòng vệ. Theo đó H. phạm tội “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” theo quy định tại khoản 1 Điều 126 BLHS.
Quan điểm thứ ba: H. phạm tội “Giết người” bởi lẽ những hành vi của L. đối với vợ và mẹ của H. là hành vi vi phạm pháp luật đã làm H bị kích động nhưng trong vụ này những hành vi đó của L. chưa đến mức để H. lựa chọn cách xử xự là dùng dao chém nhiều nhát vào vùng trọng yếu của L. và cuối cùng là dùng dao cắt đứt cổ L.; do đó H. phạm tội không phải trong trường hợp bị “kích động mạnh” hay “vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”; việc H. dùng dao chém vào cổ trái của L, mặc dù đã được ngăn cản nhưng H. không dừng lại mà “tiếp tục chém nhiều nhát vào cơ thể của L. và dùng dao cắt đứt cổ L.”, như vậy có thể nói khi thực hiện hành vi H. thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra, nhưng vì mong muốn hậu quả đó xảy ra nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội đến cùng. Do đó hành vi của H. đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 123 BLHS.
ĐỖ VĂN DUY
Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 3
HOÀNG XUÂN HƯNG
Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội

