/ Trao đổi - Ý kiến
/ Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị về tội 'Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản'

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị về tội 'Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản'

05/09/2025 23:17 |

(LSVN) - Tội "Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản" là một trong những loại tội phạm có diễn biến phức tạp trong thời gian gần đây, gây ra những hoang mang trong quần chúng nhân dân. Với mục đích vừa xâm phạm quyền sở hữu tài sản, vừa xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tự do của con người, loại tội phạm này cần được pháp luật quy định một cách chặt chẽ và rõ ràng để đảm bảo công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) về tội này vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập do nhận thức và áp dụng không thống nhất.

Một số vướng mắc, bất cập

Thứ nhất, chưa quy định "phạm tội đối với phụ nữ mà biết là có thai" là tình tiết định khung tăng nặng

Mặc dù nhóm phụ nữ có thai là đối tượng nhạy cảm, cần được bảo vệ đặc biệt và tình tiết này đã được quy định trong nhiều tội danh khác (ví dụ Điều 130 BLHS - Tội "Bức tử"), nhưng Điều 169 BLHS lại không đề cập, tạo ra lỗ hổng trong việc bảo vệ triệt để quyền lợi nạn nhân và chưa phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này.

Thứ hai, quan điểm khác nhau về thời điểm hoàn thành tội phạm khi áp dụng tình tiết định lượng về tài sản chiếm đoạt

Mặc dù tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có cấu thành hình thức (chỉ cần hành vi là hoàn thành), nhưng lại có tranh cãi về việc liệu các tình tiết định khung tăng nặng liên quan đến giá trị tài sản (50 triệu, 200 triệu, 500 triệu đồng trở lên) có cần hậu quả chiếm đoạt tài sản thực tế xảy ra hay chỉ cần có ý định chiếm đoạt là đủ. Đa số quan điểm cho rằng hậu quả chiếm đoạt tài sản phải thực tế xảy ra mới có căn cứ áp dụng các tình tiết này. Tuy nhiên, việc thực tiễn xét xử lại thường xử theo hướng chỉ cần có ý định chiếm đoạt là đủ. Vấn đề này gây bất lợi cho người phạm tội, do hình phạt không tương xứng với hành vi và hậu quả trong một số trường hợp.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet,

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet,

Thứ ba, phân biệt với các tội khác do khái niệm “bắt cóc” chưa rõ ràng

Khái niệm “bắt cóc” trong Từ điển tiếng Việt là “bắt người một cách đột ngột và đem giấu đi”. Tuy nhiên, Điều 169 BLHS lại không thể hiện rõ điều này, dẫn đến tranh luận và nhầm lẫn với các tội khác như Tội "Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật" (Điều 157 BLHS), Tội "Cướp tài sản" (Điều 168 BLHS), Tội "Cưỡng đoạt tài sản" (Điều 170 BLHS).

Khác biệt với Tội "Cướp tài sản": Tội "Cướp tài sản" là dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trực tiếp để chiếm đoạt tài sản ngay tức khắc, làm người bị tấn công không thể chống cự được. Trong khi đó, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là bắt và giấu con tin để uy hiếp người khác chuộc, người bị đe dọa vẫn có thời gian để thỏa thuận, thương lượng.

Khác biệt với Tội "Cưỡng đoạt tài sản": Tội "Cưỡng đoạt tài sản" là đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần, nhưng không bắt cóc người làm con tin và người bị hại vẫn có thời gian suy nghĩ, thương lượng, hoặc nhờ sự can thiệp của cơ quan chức năng. Người phạm Tội "Cưỡng đoạt tài sản" không có hành vi bắt cóc người làm con tin.

Thứ tư, quan điểm khác nhau về tình tiết "phạm tội đối với trẻ em

Có ý kiến cho rằng chỉ áp dụng tình tiết tăng nặng này nếu người phạm tội biết rõ nạn nhân là trẻ em. Tuy nhiên, quan điểm khác cho rằng chỉ cần xác định người bị hại là trẻ em thì đã cấu thành tình tiết tăng nặng, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội. Quan điểm thứ hai được nhiều người ủng hộ vì bảo vệ người bị hại tốt nhất.

Giải pháp hoàn thiện

Từ các vướng mắc, bất cập trên và nhu cầu trên thực tế về công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm, tác giả đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện như sau:

Thứ nhất, bổ sung tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội đối với phụ nữ mà biết là có thai” vào điểm d khoản 2 Điều 169 BLHS, để thể hiện chính sách bảo vệ bà mẹ và trẻ em.

Thứ hai, quy định thống nhất về điều kiện áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng có tính định lượng cụ thể về tài sản chiếm đoạt (từ 50 triệu đến dưới 500 triệu đồng; từ 500 triệu đồng trở lên) chỉ khi người phạm tội đã thực sự chiếm đoạt được số tiền của bị hại.

Thứ ba, cần ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng cụ thể hơn về khái niệm “bắt cóc” trong cấu thành tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản để tránh nhầm lẫn với các tội khác. Đồng thời, cần hướng dẫn rõ ràng về tình tiết định khung tăng nặng “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” để tránh áp dụng tùy tiện, gây oan sai.

Thứ tư, hướng dẫn thống nhất việc áp dụng tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” theo hướng khách quan, nghĩa là chỉ cần nạn nhân là trẻ em là đủ để áp dụng tình tiết tăng nặng, không cần người phạm tội phải nhận thức được điều đó.

Tóm lại, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hết sức cần thiết để khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa và đấu tranh, chống tội phạm, đảm bảo công bằng và nghiêm minh của pháp luật.

HUỲNH HẢI DUY

Tòa án Quân sự Quân khu 9

PHẠM MINH ĐÔ

Tòa án Quân sự Quân khu 7

Các tin khác