Khoản 3 Điều 56 Bộ luật Hình sự quy định: "Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này".
Quy định tại khoản 3 khác khoản 1 và khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự ở các điểm: Chủ thể tổng hợp hình phạt là Chánh án Tòa án; việc tổng hợp hình phạt về bản chất là giống với khoản 1 khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự, nếu bản án sau tuyên hình phạt về tội xảy ra trước khi có bản án đang phải chấp hành thì tổng hợp theo khoản 1; nếu bản án sau tuyên hình phạt về tội xảy ra trong khi đang phải chấp hành một bản án thì tổng hợp theo khoản 2.
Thực tiễn cho thấy, các bản án đã có hiệu lực pháp luật có thể là của cùng một Tòa án, có thể là của các Tòa án khác nhau, có thể có bản án của Tòa án nhân dân có thể có bản án của Tòa án quân sự. Vậy Chánh án Tòa án nào có thẩm quyền tổng hợp hình phạt? Về vấn đề này Tòa án nhân dân Tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao đã ban hành Thông tư liên ngành số 02 ngày 20/12/1991 hướng dẫn về thẩm quyền tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật. Thông tư này không trái với Bộ luật Hình sự, vấn đề tổng hợp hình phạt được hướng dẫn tại Mục 5 Thông tư số 02.

Ảnh minh họa.
Trình tự ra Quyết định thi hành án và tổng hợp hình phạt được tiến hành như sau: Khi bản án có hiệu lực pháp luật thì Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm sẽ ra quyết định thi hành án đối với hình phạt được tuyên trong bản án. Sau đó, trên cơ sở công văn của Tòa án xét xử trước hoặc của trại giam nơi người bị kết án chấp hành, Toà án ra bản án sau nếu là cùng cấp hoặc Toà án cấp cao hơn nếu là khác cấp sẽ ra quyết định tổng hợp hình phạt. Một điều kiện bắt buộc ở đây là các bản án đều phải có hiệu lực pháp luật thì mới có thể tiến hành tổng hợp hình phạt được.
Do vậy, nếu một bản án, quyết định phúc thẩm, hoặc quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm thì có hiệu lực thi hành ngay, nhưng nếu là bản án, quyết định sơ thẩm thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, tức là ngày tiếp theo sau thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, Tòa án xét xử sau cũng không biết rằng người này đã bị kết án trong một bản án trước, và trại giam khi nhận bị án vào thi hành cũng không biết để có thể kiến nghị yêu cầu Tòa án tiến hành tổng hợp hình phạt. Điều này vô hình dung đã bỏ lọt tội phạm. Thiết nghĩ nên có một cơ quan thống nhất quản lý và có công văn yêu cầu Tòa án tổng hợp hình phạt trong trường hợp bị án bị xét xử bởi nhiều bản án. Nhưng cơ quan nào và tiến hành như thế nào thì vẫn còn bỏ ngỏ?
Có ý kiến cho rằng, khi tiến hành tổng hợp hình phạt Chánh án Tòa án có thẩm quyền tổng hợp hình phạt sẽ ra quyết định tổng hợp hình phạt mà không ra quyết định thi hành án đối với bản án của mình, đồng thời phải hủy quyết định thi hành án của các tòa án trước, nhằm triệt tiêu hiệu lực của các quyết định thi hành án này, tránh trường hợp một lúc có nhiều quyết định thi hành án và quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đồng thời có hiệu lực pháp luật. Đối với vấn đề này, tác giả cho rằng như vậy là không hợp lý và sẽ làm phức tạp thêm vấn đề. Bởi lẽ, thứ nhất, tong trường hợp Tòa án tiến hành tổng hợp hình phạt là tòa án cùng cấp, thì tòa án này không thể ra quyết định hủy bỏ quyết định thi hành án của Tòa án khác. Thứ hai, không thể đánh đồng quyết định tổng hợp hình phạt và quyết định thi hành án. Khác với quyết định tổng hợp hình phạt có ý nghĩa để tổng hợp hình phạt của các bản án có hiệu lực, thì Quyết định thi hành án có ý nghĩa nhằm cụ thể hóa và là cơ sở để thi hành hình phạt được tuyên trong từng bản án.
Sau khi tổng hợp hình phạt thì có phải ra quyết định thi hành án đối với hình phạt được tổng hợp hay không và Tòa án nào sẽ ra quyết định thi hành án này? Đối với vấn đề này, trước đây luật và các văn bản hướng dẫn đã không có quy định cụ thể, trên thực tế thì sau khi ra quyết định tổng hợp hình phạt có tòa án vẫn ra quyết định thi hành án trên cơ sở quyết định tổng hợp hình phạt có tòa không ra quyết định thi hành án. Hiện nay, theo khoản 1 Điều 364 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về thẩm quyền và thủ tục ra quyết định thi hành án như sau:
“1. Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.
2. Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác thi hành của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thì Chánh án Tòa án được ủy thác phải ra quyết định thi hành án”.
Đồng thời, tại Mục 2 Công văn 163/TANDTC-PC năm 2024 về giải đáp một số vướng mắc trong xét xử, trong đó có liên quan đến hình sự, tổ tụng hình sự cũng nêu rõ: Theo quy định tại khoản 1 Điều 364 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) thì Tòa án có thẩm quyền đã ra quyết định thi hành án đối với mỗi bản án có hiệu lực pháp luật. Do đó, Tòa án không ra quyết định thi hành án đối với quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.
Như vậy, theo quy định thì Tòa án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án đối với mỗi bản án có hiệu lực pháp luật. Nên Tòa án không ra quyết định thi hành án đối với quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.
Qua thực tiễn tiến hành hoạt động này, chúng tôi cũng cho rằng không cần thiết phải ra thêm một quyết định thi hành án đối với hình phạt chung. Bởi vì, như đã đề cập ở trên thì quyết định thi hành án chỉ được ra căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án, không được ra trên cơ sở quyết định tổng hợp hình phạt. Mặt khác, quyết định tổng hợp hình phạt tự bản thân nó đã có đầy đủ cơ sở pháp lý để thi hành. Trong thực tiễn thì sau khi tiến hành tổng hợp hình phạt, quyết định tổng hợp hình phạt được gửi cho trại giam nơi người bị kết án đang chấp hành án, và trại giam căn cứ vào đó để thực hiện. Đến nay cũng chưa phát sinh một vướng mắc nào trong hoạt động này.
Bên cạnh đó, liên quan đến trường hợp một người phải chấp hành hình phạt của nhiều bản án, mà một trong các bản án bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, hoặc bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, nhưng Tòa án xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử vụ án, hoặc Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ra Quyết định không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án đã có hiệu lực pháp luật, thì Tòa án xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm có phải là Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt không nếu là xét xử sau cùng hoặc là tòa án cấp cao hơn. Thực tiễn thì trong trường hợp trên Tòa án xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm không thực hiện tổng hợp hình phạt.
Tác giả đồng ý với việc thực hiện như trên. Bởi lẽ, nếu Tòa án xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử vụ án, hoặc Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ra Quyết định không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án đã có hiệu lực pháp luật thì bản án bị xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm có hiệu lực pháp luật. Mặt khác, khoản 3 Điều 56 Bộ luật Hình sự quy định chỉ tổng hợp hình phạt trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án có hiệu lực pháp luật. Trường hợp trên, Tòa án xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm không ra bản án mà chỉ ra quyết định. Do vậy, Tòa án xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm không có thẩm quyền tổng hợp hình phạt là có cơ sở.
Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung cũng như hoạt động quyết định hình phạt trong tố tụng hình sự nói riêng. Tuy nhiên, điều luật này còn dẫn đến những cách nhìn nhận khác nhau khi áp dụng pháp luật.
Để bảo đảm cho hoạt động áp dụng pháp luật một cách đúng đắn và thống nhất, khắc phục những hạn chế bất cập trong thời gian tới, tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, thay cụm từ "một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật" tại khoản 3 Điều 56 Bộ luật Hình sự bằng cụm từ "một người đang có nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật"; thay từ "và" bằng từ "hoặc" theo đó Chánh án Tòa án chỉ có thể tổng hợp theo khoản 1 "hoặc" khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự.
Thứ hai, khoản 3 Điều 56 Bộ luật Hình sự cần được sửa đổi như sau:
“3. Trong trường hợp một người đang có nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì chánh án Tòa án ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này”.