Ảnh minh họa.
Bộ luật Hình sự (BLHS) 2015 quy định tại Điều 125 về tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" như sau: “1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm”.
Từ quy định tại Điều 125 về tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" đòi hỏi người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Có thể hiểu rằng, tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái tinh thần, ý thức bị hạn chế tức thời ở mức độ cao do không kiềm chế, kiểm soát được cảm xúc, tình cảm dẫn đến hạn chế khả năng suy nghĩ và điều khiển hành vi. Theo từ điển pháp luật hình sự thì: “Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng ý thức bị hạn chế tức thời ở mức độ cao do không chế ngự được tình cảm dẫn đến sự hạn chế đáng kể khả năng kiểm soát và điều khiển hành vi” [1].
Từ phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa về tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" như sau: “Tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác trong trạng thái người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiểm soát được bản thân do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người đó”.
Quy định của BLHS 2015 về tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh"
BLHS 2015 ra đời đã có những sửa đổi, bổ sung mới về tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" để phù hợp hơn với điều kiện thực tiễn tội phạm hiện nay. Có thể thấy rằng, kéo theo sự phát triển và kinh tế xã hội thì tình hình tội phạm cũng ngày càng gia tăng, trong đó tội phạm liên quan đến hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ngày càng đáng báo động.
Có thể thấy rằng, BLHS 2015 đã kế thừa và phát huy những quy định về tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" của BLHS năm 1999 đã có quy định chi tiết, cụ thể và thực tế hơn đối với loại tội phạm này. Điều 125 BLHS 2015 về tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" gồm 02 khoản. Trong đó, khoản 1 quy định dấu hiệu pháp lý và định khung hình phạt cơ bản của tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh"; khoản 2 quy định trường hợp phạm tội tăng nặng đối với loại tội phạm này.
Đối với tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" được xem là trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) đặc biệt của tội "Giết người". Trong BLHS năm 1985, giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định là trường hợp giảm nhẹ TNHS đặc biệt của tội giết người mà không được quy định thành tội danh riêng như BLHS hiện nay. Về cấu thành tội phạm về tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" như sau: Dấu hiệu chủ thể tội phạm: Dấu hiệu đặc biệt của chủ thể ở tội phạm này là họ phải trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh khi thực hiện hành vi phạm tội (khi thực hiện hành vi cố ý tước đoạt tính mạng người khác). Trong đó, “tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình...” [2].
Có thể hiểu, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội là do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân của người phạm tội gây ra. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể chỉ là một hành vi cụ thể và tức thì dẫn đến trạng thái thần kinh bị kích động mạnh của người phạm tội. Đến thời điểm nào đó, khi có hành vi trái pháp luật cụ thể xảy ra thì trạng thái tinh thần của người phạm tội bị đẩy đến cao độ và người phạm tội lâm vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể là đối với chính người phạm tội hoặc có thể là đối với người khác có quan hệ tình cảm thân thuộc với người phạm tội.
Theo Điều 12 BLHS 2015, chủ thể của tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" là người từ đủ 16 tuổi trở lên vì tội này không thuộc các tội mà tuổi chịu trách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở lên được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 BLHS 2015.
Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" là hành vi tước đoạt tính mạng của người đã làm cho chủ thể của tội phạm lâm vào tình trạng trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của mình. Hành vi tước đoạt mạng sống có thể là đâm, chém, bắn... Dấu hiệu hậu quả của tội phạm: tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" hậu quả được quy định là hậu quả chết người. Nạn nhân của tội phạm là người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng và đã làm cho chủ thể của tội phạm lâm vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Để chứng minh tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả chết người cũng cần chứng minh quan hệ nhân quả giữa hậu quả này với hành động tước đoạt tính mạng mà họ đã thực hiện. Dấu hiệu lỗi của chủ thể: Lỗi của chủ thể được quy định có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp.
Về khung hình phạt: Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt cho trường hợp phạm tội bình thường của tội phạm này có mức phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung hình phạt này là nhẹ hơn so với các khung hình phạt của tội "Giết người" vì đây là trường hợp giết người có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt. Cụ thể: Người phạm tội đã thực hiện hành vi giết người trong tình trạng khả năng nhận thức và kiềm chế đều bị hạn chế ở mức cao và hơn nữa tình trạng đó lại do chính nạn nhân gây ra. Như vậy, trong trường hợp phạm tội này, mức độ lỗi của chủ thể phạm tội là hạn chế và nạn nhân cũng có lỗi. Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng có mức phạt tù từ 03 năm tù đến 07 năm tù được áp dụng cho trường hợp giết từ 02 người trở lên.
Việc quy định cụ thể, chi tiết và bổ sung thêm một điều khoản mới tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" sẽ góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh, phòng chống tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh", tiến tới việc hạn chế và đẩy lùi, góp phần tích cực trong việc loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Một số bất cập, vướng mắc
Trải qua quá trình hình thành và hoàn thiện, các quy định pháp luật về tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" ngày càng được quy định một cách đầy đủ và thống nhất hơn. Tuy nhiên, trong quá trình thực tiễn áp dụng vẫn còn một số bất cập, vướng mắc chưa giải quyết triệt để như sau:
Thứ nhất, chưa có tính thống nhất trong xác định “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Đây là vướng mắc cơ bản nhất chưa giải quyết được khi định tội danh tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh". Chưa có một quy định chi tiết, cụ thể để xác định trạng thái tinh thần bị kích động của một người như thế nào. Chính vì lý do trên, nên xảy ra rất nhiều trường hợp có nhiều quan điểm khác nhau về tội danh của tội phạm, gây nên sự không thống nhất về định tội danh.
Thứ hai, các quy định hiện nay chưa đề cập đến căn cứ để xác định mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc người thân thích phạm tội. Có nhiều quan điểm về hành vi trái pháp luật nêu trên, hành vi này phải là hành vi trái pháp luật hình sự, bởi vì chỉ có hành vi trái pháp luật hình sự mới có thể gây ra tinh thần trạng thái bị kích động mạnh của người phạm tội. Tuy nhiên, có quan điểm khác cho rằng, hành vi trái pháp luật không hẳn là trái pháp luật hình sự, ngoài ra hành vi trái pháp luật có thể trái pháp luật dân sự, hành chính, hôn nhân gia đình... Vì những lý do trên nên chưa có sự thống nhất trong quan điểm xác định hành vi trái pháp luật khiến người phạm tội rơi vào trạng thái bị kích động mạnh, gây khó khăn cho quá trình tố tụng.
Thứ ba, trong thực tế xét xử việc xác định ranh giới giữa tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" với một số tội khác như: giết người, tội giết người do vượt quá phòng vệ chính đáng,… gây nên nhiều khó khăn trong quá trình xét xử vụ án. Các quy định về nhóm tội xâm phạm sức khỏe của người khác nhà làm luật đã không mô tả dấu hiệu khách quan một cách cụ thể, rõ ràng để phân biệt tội phạm này với tội phạm khác, nhất là đối với tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" với tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có tình tiết định khung hình phạt là “dẫn đến hậu quả chết người”. Việc không quy định cụ thể, rõ ràng gây khó khăn trong quá trình tố tụng, khó khăn trong việc xác định tội danh.
Thứ tư, các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định của BLHS về các tội xâm phạm sức khỏe con người thì vẫn tồn tại tình trạng ban hành không kịp thời hoặc sử dụng các văn bản hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật cũ đã chấm dứt hiệu lực (BLHS năm 1985). Chẳng hạn, Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán TANDTC giải thích: “Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh” được quy định trong cấu thành của một số tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người của BLHS năm 1985. Do hiện nay chưa có văn bản mới được ban hành để thay thế nên đến nay khi xác định tình tiết “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự vẫn căn cứ vào Nghị quyết này.
Một số đề xuất, kiến nghị
Thứ nhất, cần có quy định hướng dẫn cụ thể về áp dụng tình tiết định tội “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Đây là điều kiện đặc biệt quan trọng là cơ sở để xác định một người có phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần có bị kích động mạnh hay không. Việc xác định trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là một vấn đề rất phức tạp. Trạng thái tinh thần của mỗi con người là tâm lý sâu bên trong, với mỗi người thì trạng thái tinh thần là khác nhau. Từ đó, một quy định chung hướng dẫn về tinh thần trạng thái bị kích động mạnh là vấn đề không hề đơn giản.
Cùng một sự việc nhưng người này xử sự khác người kia, hoặc có người bị kích động mạnh về tinh thần những có người lại không bị kích động mạnh. Ngoài ra, thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi giết người, cơ quan pháp luật không có ở đó, sau khi phạm tội thì trạng thái tâm lý của họ đã trở lại bình thường. Do vậy, khi xem xét hành vi giết người của người phạm tội có trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh hay không thì phải xem xét người bình thường ở trong hoàn cảnh phạm tội của bị cáo có thể xử sự như thế nào. Như vậy, không có “thước đo” cụ thể nào để xác định một người bị kích động hay bị kích động mạnh và để đưa ra nhận định chính xác, chúng ta phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, xem xét từng chi tiết của vụ án, đồng thời không thể bỏ qua các đặc điểm liên quan đến nhân thân của người phạm tội, điều kiện sống, quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội. BLHS 2015 ra đời đã có những sửa đổi, bổ sung phù hợp hơn, tuy nhiên cần đẩy mạnh xây dựng hệ thống án lệ liên quan đến loại tội phạm này để thông nhất trong quá trình áp dụng và xét xử vụ án. Tránh gây nên sự không thống nhất trong quan điểm xét xử, gây nên trường hợp oan sai.
Thứ hai, khi tiến hành xem xét, đánh giá hành vi trái pháp luật của nạn nhân, người tiến hành tố tụng cần cẩn thận, kỹ lưỡng trong việc đánh giá hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng trước hết phải là hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội. Ngoài ra, trong một số trường hợp hành vi trái pháp luật còn ảnh hưởng đến tài sản của người phạm tội. Do đó, để định tội danh của người phạm tội cần xác định hành vi trái pháp luật của nan nhân một cách kỹ lưỡng và toàn diện trên mọi mặt. Hành vi trái pháp luật ở đây có thể chưa cấu thành tội phạm hoặc đã cấu thành tội phạm tuy nhiên hành vi trên phải là nguyên nhân trực tiếp làm cho tinh thần của người phạm tội bị kích động mạnh, dẫn đến họ không làm chủ bản thân khiến xảy ra hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ ba, cần khắc phục khó khăn trong xác định ranh giới giữa tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" với một số loại tội danh khác. Đặc biệt là tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có tình tiết định khung hình phạt là “dẫn đến hậu quả chết người”. Hai loại tội này nếu chỉ dựa vào dấu hiệu chủ quan, dựa vào lỗi của người phạm tội thì rất khó phân biệt giữa hai loại tội phạm này.
Khi rơi vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, người phạm tội không nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra hậu quả cụ thể nào (chết người hay thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ) mà họ chỉ nhận thức một cách khái quát về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả từ hành vi đó gây ra. Do vậy, chỉ có thể phân biệt hai cấu thành tội phạm này thông qua dấu hiệu hậu quả. Nếu hậu quả chết người xảy ra có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội, đó là tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh". Còn nếu hậu quả xảy ra chỉ là thương tích, đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Điều này làm cho người áp dụng pháp luật lúng túng vì chỉ dựa vào mặt chủ quan của người phạm tội để tiến hành định tội danh mà chưa thực sự thấy được điểm khác nhau rõ ràng giữa chúng. Để giải quyết vấn đề này, theo tác giả, nhà làm luật nên nghiên cứu bỏ dấu hiệu hậu quả “chết người” trong cấu thành tội phạm tăng nặng của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và chỉ giữ lại quy định: “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên”.
Ngoài những giải pháp hoàn thiện pháp luật, cần có những giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự nói chung và về tội "Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" nói riêng.
============ [1] Nguyễn Ngọc Hòa – Lê Thị Sơn, Từ điển pháp luật hình sự, NXB Tư pháp; [2] Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS. |
NGUYỄN PHI HÙNG
Toà án Quân sự Quân khu 4
Hỏi cung bị can theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành