(LSO) - Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi là một trong những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 5 Điều 29 BLTTDS năm 2015. Khi giải quyết yêu cầu này, Tòa án có chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự thì phải căn cứ vào quy định tại Điều 25 Luật nuôi con nuôi năm 2010. Tuy nhiên, quy định tại Điều 25 Luật nuôi con nuôi hiện nay đã nảy sinh bất cập so với thực tiễn giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi là người chưa thành niên tại các Tòa án hiện nay.
Theo quy định tại Điều 25 Luật nuôi con nuôi thì “Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi;
2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;
3. Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;
4. Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật này.”.
Quy định tại Điều 13 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 như sau:
“Điều 13. Các hành vi bị cấm:
1. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em;
2. Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi;
3. Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi;
4. Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số;
5. Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước;
6. Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi;
7. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.”
Như vậy, theo quy định tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, trường hợp con nuôi là người chưa thành niên thì căn cứ chấm dứt nuôi con nuôi là khi:
- Con nuôi là người chưa thành niên: bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;
- Cha mẹ nuôi của con nuôi chưa thành niên bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;
- Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
Qua nghiên cứu các Quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi được Công bố trên Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao thì thấy nhiều trường hợp nếu căn cứ vào quy định tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi thì Tòa án không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi nhưng nếu Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật mà không chấp nhận yêu cầu của đương sự thì không phù hợp với ý chí tự nguyện, thỏa thuận của các đương sự. Cho nên các những trường hợp này, các Tòa án vẫn chấp nhận yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi là người chưa thành niên. Ví dụ như:
Việc yêu cầu thứ 1(1): Theo Quyết định số 87/2019/QĐST-HNGĐ ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh ĐN thì ông Trần Công T và bà Nguyễn Thị Q kết hôn với nhau vào năm 1999 và đã có 02 người con chung (nay đã trưởng thành). Năm 2015, vợ chồng em ruột là Nguyễn Thanh H và chị Trần Thị Thảo T có khó khăn về kinh tế, nên đồng ý cháu Nguyễn Minh Khánh H, sinh ngày 31/10/2003 là con nuôi của vợ chồng ông bà, nên ông T và bà Q đã làm thủ tục nhận nuôi tại UBND xã H, huyện T và được cấp giấy chứng nhận nuôi con nuôi số 01 ngày 15/9/2015. Sau khi nhận con nuôi, ông T và bà Q đã thay đổi họ của cháu từ Nguyễn Minh Khánh H thành Trần Minh Khánh H và chăm sóc cháu, nuôi dưỡng cháu tốt. Nhưng nay cháu H có nguyện vọng được về sống cùng bố mẹ ruột, nên ông bà yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi đối với cháu Trần Minh Khánh H. Anh Nguyễn Thanh H, chị Trần Thị Thảo T và cháu H đồng ý chấm dứt việc nuôi con nuôi theo yêu cầu của ông T và bà Q. Trường hợp này Tòa án chấp nhận yêu cầu của đương sự.
Việc yêu cầu thứ 2(2): Theo Quyết định số 01/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố CL, tỉnh DT thì năm 2016, anh Cao Bá T, chị Mai Thị D nhận cháu Lương Cao Tuyết N, sinh ngày 06/10/2013 làm con nuôi, được Ủy ban nhân dân xã T, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp cấp giấy chứng nhận nuôi con nuôi ngày 14/6/2016. Cháu Lương Cao Tuyết N là con ruột của chị Cao Thị Hoàng O, em gái của anh T. Hiện nay, do điều kiện kinh tế của vợ chồng anh T, chị D khó khăn không thể tiếp tục nuôi cháu N. Đồng thời, chị Cao Thị Hoàng O có yêu cầu nhận lại con là cháu N. Nên anh T, chị D yêu cầu Tòa án giải quyết: Chấm dứt nuôi con nuôi đối với Lương Cao Tuyết N, sinh ngày 06/10/2013. Chị Cao Thị Hoàng O đồng ý chấm dứt việc nuôi con nuôi theo yêu cầu của anh T và chị D. Trường hợp này Tòa án chấp nhận yêu cầu của đương sự.
Việc yêu cầu thứ 3(3): Theo Quyết định số 36/2018/QĐST-HNGĐ ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố CL, tỉnh DT thì năm 2002, chồng bà Phạm Thị H bệnh nặng, vì hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn nên ngày 17/4/2012 bà H có đăng ký thủ tục cho con nuôi đối với con trai bà H tên là Nguyễn Xuân Q, sinh ngày 02/7/2002 cho vợ chồng chị ruột bà là ông Huỳnh Chí D và bà Phạm Thị S nuôi dưỡng, theo giấy chứng nhận nuôi con nuôi số 02/2012 do Ủy ban nhân dân Phường G, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp cấp ngày 17/4/2012. Hiện nay, con trai lớn của bà H đều có gia đình riêng và kinh tế gia đình đã ổn định, cháu Nguyễn Xuân Q nay đã được 16 tuổi. Anh chị bà H đã về hưu không còn nguồn thu nhập ổn định và để cho cháu Nguyễn Xuân Q thuận tiện nhập hộ khẩu và đi học tại thành phố Hồ Chí Minh cùng hộ khẩu với anh của cháu Q. Vì vậy, bà Phạm Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết: Chấm dứt việc nuôi con nuôi giữa cha mẹ nuôi là ông Huỳnh Chí D và bà Phạm Thị S với con nuôi là cháu Nguyễn Xuân Q, sinh ngày 02/7/2002. Ông Huỳnh Chí D, bà Phạm Thị S đồng ý chấm dứt việc nuôi con nuôi theo yêu cầu của bà Phạm Thị H. Trường hợp này Tòa án chấp nhận yêu cầu của đương sự.
Việc yêu cầu thứ 4(4): Theo Quyết định số 98/2018/QĐST-HNGĐ ngày 10/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện LT, tỉnh DN thì năm 2005 do anh H và chị D có khó khăn về kinh tế nên thỏa thuận cho cháu Đ làm con nuôi của chị Nguyễn Thị N là em ruột anh H và được sự đồng ý của cháu Đ. Thủ tục đăng ký nuôi con nuôi được các bên thực hiện và đã được Ủy ban nhân dân xã TH, huyện LT nơi cư trú của chị N và cháu Đ cấp giấy chứng nhận nuôi con nuôi số 01/2015 và vào sổ đăng ký nuôi con nuôi ngày 08/01/2015. Hiện tại cha mẹ ruột cháu Đ là anh H và chị D đảm bảo các điều kiện nuôi dưỡng cháu Đ và chị N phải lập gia đình. Vì vậy, anh H và chị D yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi với cháu Đ. Chị N và cháu Đ đồng ý chấm dứt việc nuôi con nuôi theo yêu cầu của anh H và chị D. Trường hợp này Tòa án chấp nhận yêu cầu của đương sự.
Việc yêu cầu thứ 5(5): Theo Quyết định số 02/2018/QĐST-HNGĐ ngày 17/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh ND thì vào năm 2003, lúc đó bà O đang làm giáo viên mầm non, bà đã sinh con thứ ba đặt tên là Phạm Minh H. Để không bị ảnh hưởng đến công tác của mình, bà O có bàn với chồng là ông T1 cho cháu H làm con nuôi vợ chồng anh trai bên nhà chồng là ông T2 và bà T3. Hai bên đã làm thủ tục cho và nhận con nuôi, được Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện L ra Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi số 01/QĐ-UBND ngày 16 tháng 7 năm 2009, công nhận ông Phạm Văn T2 và bà Nguyễn Thị T3 là cha mẹ nuôi của cháu Phạm Minh H, sinh ngày 24 tháng 4 năm 2003. Trên thực tế, cháu H vẫn sống với cha mẹ đẻ là ông T1 và bà O từ đó cho đến nay. Để thuận tiện cho lý lịch tư pháp sau này, ông T2, bà T3 cùng thống nhất yêu cầu Tòa án chấm dứt việc nuôi con nuôi của vợ chồng ông T2, bà T3 đối với cháu H, sinh ngày 24 tháng 4 năm 2003. Ông T1 và bà O, cháu H đồng ý chấm dứt việc nuôi con nuôi theo yêu cầu của ông T2, bà T3. Trường hợp này Tòa án chấp nhận yêu cầu của đương sự.
Việc yêu cầu thứ 6(6): Theo Quyết định số 02/2017/QĐST-HNGĐ ngày 31/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh AG thì Ông Phạm Thành M và bà Huỳnh Thị N có quan hệ là vợ chồng, Tháng 11 năm 2016, ông M và bà N xin nhận nuôi cháu Trần Thị Trúc T theo giấy khai sinh số 250/TLKS ngày 14/7/2016 tại UBND thị trấn N, huyện T) và được bà Trần Thị Trúc N là mẹ đẻ của cháu T làm tờ cam kết đồng ý cho con. Hai bên tiến hành đã làm thủ tục và được UBND phường Đ, thành phố X chứng nhận nuôi con nuôi ngày 03/11/2016. Đến ngày 29/11/2016, UBND thị trấn N, huyện T cấp giấy khai sinh số 434 với họ tên Phạm Ngọc T, họ tên cha ông Phạm Thành M, họ tên mẹ bà Huỳnh Thị N. Sau khi cháu T được nhận làm con nuôi, vợ chồng ông M, bà N chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, thương yêu và cháu T được đi học lớp 1 tại Trường tiểu học C, phường M, thành phố X, hiện đã nghỉ hè chuẩn bị lên lớp 2. Trong thời gian này, bà N vì quá thương nhớ con nên thường xuyên đến thăm nom và cháu T cũng thương nhớ mẹ đẻ nên ông M, bà N quyết định trao trả cháu T lại cho bà N và yêu cầu Tòa án giải quyết việc chấm dứt nuôi con nuôi đối với cháu Phạm Ngọc Th. Bà Trần Thị Trúc N đồng ý chấm dứt việc nuôi con nuôi theo yêu cầu của ông Phạm Thành M và bà Huỳnh Thị N. Trường hợp này Tòa án chấp nhận yêu cầu của đương sự.
Tuy nhiên, thực tiễn vẫn có quan điểm cho rằng nếu không có căn cứ quy định tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì Tòa án không được chấp nhận yêu cầu chấp dứt việc nuôi con nuôi của đương sự. Từ những bất cập nêu trên, theo tác giải cần sửa đổi quy định tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 cho phù hợp với thực tiễn. Hoặc Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể hơn đối với trường hợp các đương sự thống nhất chấm dứt việc nuôi con nuôi là người chưa thành niên nhưng chưa được pháp luật quy định.
(1) https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta277890t1cvn/chi-tiet-ban-an (2) https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta242175t1cvn/chi-tiet-ban-an (3) https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta228777t1cvn/chi-tiet-ban-an (4) https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta187763t1cvn/chi-tiet-ban-an (5) https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta133099t1cvn/chi-tiet-ban-an (6) https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta11953t1cvn/chi-tiet-ban-an |
DƯƠNG TẤN THANH/BỘ TƯ PHÁP