/ Trao đổi - Ý kiến
/ Bình luận Án lệ số 02/2016/AL

Bình luận Án lệ số 02/2016/AL

03/06/2025 06:09 |22 ngày trước

(LSVN) - Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhờ người ở trong nước đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ mình, khi giải quyết tranh chấp thì Tòa án phải xem xét và tính công sức bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất cho người đứng tên hộ; trường hợp không xác định được chính xác công sức của người đó thì cần xác định người thực chất trả tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và người đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ có công sức ngang nhau để chia phần giá trị chênh lệch tăng thêm so với tiền gốc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ban đầu.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao nhận định:

Bà Nguyễn Thị Thảnh khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn Tám trả lại cho bà 1.260.000.000 đồng vì cho rằng bà là người trực tiếp giao dịch, trả tiền nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Hêng Tính 7.595,7m2 đất, nhưng vì bà là người Việt Nam định cư ở nước ngoài nên nhờ ông Tám (em của bà) đứng tên, nhưng không được bà đồng ý ông Tám đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất cho Công ty TNHH Minh Châu để nhận 1.260.000.000 đồng.

Ông Tám cho rằng ông là người thỏa thuận chuyển nhượng đất và trả tiền cho ông Hêng Tính, nên giấy tờ chuyển nhượng đất ông đứng tên. Sau khi nhận chuyển nhượng ông trực tiếp quản lý sử dụng, đăng ký kê khai, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và khi ông chuyển nhượng cho Công ty TNHH Minh Châu được chính quyền cho phép, nên ông không chấp nhận yêu cầu của bà Thảnh.

Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án vợ chồng ông Tám có nhiều lời khai mâu thuẫn về số tiền, vàng đã trả cho ông Hêng Tính và ông cũng không chứng minh được nguồn gốc nguồn tiền vàng mà ông cho rằng đã trả cho ông Tính.

Ảnh minh hoạ. Nguồn Internet.

Ảnh minh hoạ. Nguồn Internet.

Trong khi đó vợ chồng ông Tính, bà Quênh khẳng định chỉ thỏa thuận chuyển nhượng đất và nhận vàng của bà Thảnh còn việc viết giấy chuyển nhượng đất đứng tên ông Tám là theo yêu cầu của bà Thảnh, vì bà Thảnh đang định cư ở nước ngoài.

Theo lời khai của cụ Thái Thị Ba, ông Nguyễn Phước Hoàng, bà Nguyễn Thị Chính Em (là mẹ và anh chị em ruột của bà Thảnh, ông Tám) thì bà Thảnh giao dịch, trả tiền chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông Tính, còn ông Tám chỉ là người đứng tên giùm.

Tổng hợp các chứng cứ nêu trên có cơ sở khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định bà Thảnh là người bỏ toàn bộ số tiền là 21,99 chỉ vàng để nhận chuyển nhượng diện tích trên, còn ông Tám chỉ là người đứng tên giùm. Do ông Tám đã chuyển nhượng đất trên cho Công ty TNHH Minh Châu và bà Thảnh chỉ yêu cầu ông Tám trả lại số tiền đã chuyển nhượng là 1.260.000.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm thụ lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật.

Tuy bà Thảnh là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương đương Khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng giấy tờ chuyển nhượng đứng tên ông Tám và sau khi nhận chuyển nhượng ông Tám quản lý đất, sau đó chuyển nhượng cho người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định ông Tám có công sức trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất nên phải xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương đương 21,99 chỉ vàng của bà Thảnh) là lợi nhuận chung của bà Thảnh và ông Tám. Đồng thời xác định công sức của ông Tám để chia cho ông Tám một phần tương ứng với công sức của ông mới đúng và đảm bảo quyền lợi của các đương sự (Trường hợp không xác định được chính xác công sức của ông Tám thì phải xác định bà Thảnh, ông Tám có công sức ngang nhau để chia).

Tòa án cấp sơ thẩm công nhận bà Thảnh, ông Tám mỗi người có quyền sở hữu 1/2 số tiền trên nhưng không trích trả cho bà Thảnh số tiền tương ứng với 21,99 chỉ vàng là không đúng.

Tòa án cấp phúc thẩm chỉ công nhận bà Thảnh có quyền sở hữu số tiền tương ứng với 21,99 chỉ vàng, còn lợi nhuận là số tiền còn lại tịch thu sung công quỹ nhà nước là không đúng với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

Ngoài ra, bà Thảnh khởi kiện yêu cầu ông Tám trả cho bà 1.260.000.000 đồng là số tiền ông Tám chuyển nhượng giá trị quyền sử dụng 7.595,7m2 đất, mà không tranh chấp quyền sử dụng đất, còn ông Tám cho rằng số tiền trên là của ông. Như vậy, các đương sự tranh chấp quyền sở hữu tài sản là số tiền nêu trên. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp đòi lại tài sản” là không chính xác.

Nội dung án lệ

“Tuy bà Thảnh là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương đương Khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng giấy tờ chuyển nhượng đứng tên ông Tám và sau khi nhận chuyển nhượng ông Tám quản lý đất, sau đó chuyển nhượng cho người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định ông Tám có công sức trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất nên phải xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương đương 21,99 chỉ vàng của bà Thảnh) là lợi nhuận chung của bà Thảnh và ông Tám. Đồng thời xác định công sức của ông Tám để chia cho ông Tám một phần tương ứng với công sức của ông mới đúng và đảm bảo quyền lợi của các đương sự (trường hợp không xác định được chính xác công sức của ông Tám thì phải xác định bà Thảnh, ông Tám có công sức ngang nhau để chia)".

Bình luận

Theo xác định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao (HĐTP TANDTC), thì đây là vụ án tranh chấp quyền sở hữu tài sản, trong đó nguyên đơn yêu cầu bị đơn hoàn trả số tiền đã tự ý bán mảnh đất mà nguyên đơn đã bỏ tiền ra mua.

Quyết định của HĐTP TANDTC đã nêu ra những tình tiết của vụ án như:

- Nguyên đơn (là người Việt Nam định cư ở nước ngoài) đã trực tiếp giao dịch, trả tiền mua mảnh đất nhưng nhờ bị đơn (là em ruột) đứng tên trên giấy tờ chuyển nhượng đất đó.

- Bị đơn đã trực tiếp quản lý sử dụng, đăng ký kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Không được sự đồng ý của nguyên đơn, bị đơn đã bán mảnh đất.

Từ những tình tiết nêu trên, HĐTP TANDTC đưa ra cách giải quyết vụ án như sau: Số tiền bán mảnh đất, sau khi trừ đi số tiền gốc mua mảnh đất thuộc về nguyên đơn, thì lợi nhuận là của chung của nguyên đơn và bị đơn. Phải xác định công sức của bị đơn làm tăng giá trị đất để chia số tiền này cho tương xứng, trong trường hợp không xác định được chính xác công sức của bị đơn thì lợi nhuận này cần được chia đôi cho hai bên.

Điều 235 Bộ luật Dân sự năm 2005 (Quyết định công bố án lệ đã dẫn ở mục “Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ"), quy định: "Chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, kể từ thời điểm thu được hoa lợi, lợi tức đó”. Đoạn “theo quy định của pháp luật" là một quy định dẫn chiếu, tức là phải dẫn chiếu đến một quy định của pháp luật về chia hoa lợi, lợi tức để xác định phần sở hữu của mỗi bên. Trong vụ án này, nguyên đơn và bị đơn không có thỏa thuận về việc chia số lợi nhuận do bán mảnh đất, và không rõ điều luật nào đã quy định về vấn đề này. Vì vậy, việc đưa ra cách chia như trên mà không có một sự giải thích nào về mặt pháp luật, có lẽ là không phù hợp.

Trong vụ án này, nguyên đơn là người trực tiếp giao dịch với người bán. Vậy trong trường hợp họ ủy quyền cho bị đơn giao dịch, và đứng tên trên giấy chuyển nhượng thì có thuộc phạm vi điều chỉnh của án lệ này không? Tại Quyết định không có lập luận để bao quát cả trường hợp này.

Ở một vụ án khác có hai tình tiết giống như vụ án nêu trong án lệ, nhưng có một tình tiết không giống là bị đơn tự ý đem thế chấp mảnh đất để vay vốn ngân hàng hoặc đem số tiền bán mảnh đất để kinh doanh, nhưng thua lỗ, thì có coi là tương tự để áp dụng án lệ và áp dụng Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2005 để buộc bị đơn phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đã xảy ra hay không? Án lệ đã không nêu ra lập luận về nguyên tắc pháp lý để bao hàm cả những trường hợp này.

Như vậy, phạm vi của án lệ chỉ bó hẹp trong vụ án được giải quyết.

Cuối cùng, theo điểm đ, khoản 1, Điều 169 Luật Đất đai 2013 thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sở hữu đất ở tại Việt Nam và theo điểm b, khoản 2, Điều 8 Luật Nhà ở 2014 thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở hợp pháp thông qua các hình thức được quy định ở điểm khoản của điều luật này. Với những quy định này thì có lẽ sẽ không còn việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhờ người trong nước đứng tên khi mua nhà đất. Tuy nhiên, án lệ trên lại được công bố năm 2016, sau khi hai luật này có hiệu lực.

Từ những ý kiến trên, theo tôi Án lệ số 02/2016/AL chỉ là một Quyết định có tính chất “sự vụ", chưa đủ tiêu chí để trở thành án lệ.

NGÔ CƯỜNG

Các tin khác