1. Trích yếu Án lệ số 13/2017/AL
Xét khuôn khổ bài viết và độ dài của Án lệ số 13/2017/AL, phần trích yếu này chỉ trình bày những thông tin thiết yếu và các khía cạnh có giá trị đối chiếu, phân tích trực tiếp trong khuôn khổ bình luận, như sau:
Án lệ số 13/2017/AL về hiệu lực thanh toán của thư tín dụng (L/C) trong trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cơ sở của L/C bị huỷ bỏ, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thông qua ngày 14/12/2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28/12/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao.

Ảnh minh họa.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 17/2016/KDTM-GĐT ngày 10/11/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên A (do ông Nguyễn Duy T. làm đại diện theo ủy quyền) với bị đơn Công ty B; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm Ngân hàng thương mại cổ phần E (do ông Hứa Anh K. làm đại diện theo ủy quyền) và Ngân hàng N (do bà Nguyễn Thị V. làm đại diện theo ủy quyền).
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thỏa thuận phương thức thanh toán bằng thư tín dụng (L/C), thỏa thuận thực hiện L/C theo tập quán thương mại quốc tế (Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ lần thứ 6 năm 2007 (UCP 600) của Phòng Thương mại Quốc tế) và phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cơ sở của L/C bị hủy bỏ.
- Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải xác định thư tín dụng (L/C) không bị mất hiệu lực thanh toán vì lý do hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cơ sở của thư tín dụng (L/C) bị hủy bỏ.
Quy định của pháp luật có liên quan đến án lệ:
- Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015);
- Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/3/2002 của Ngân hàng Nhà nước về “Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán”;
- Bản sửa đổi về quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ lần thứ 6 năm 2007 (UCP 600) của Phòng Thương mại Quốc tế.
Nội dung vụ án:
Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao nhận định:
[1] Ngày 07/6/2011, Công ty TNHH một thành viên A (Bên mua) và Công ty B (Bên bán) có ký Hợp đồng mua bán ngày 07/6/2011 với nội dung: Bên mua mua 1.000 tấn hạt điều với phương thức thanh toán 98% L/C trả chậm trong vòng 90 ngày, kể từ ngày giao hàng dựa trên vận đơn.
[2] Thực hiện hợp đồng nêu trên, Công ty A đã yêu cầu và nộp số tiền ký quỹ là 1.313.308,85 USD để Ngân hàng Thương mại Cổ phần E phát hành L/C số 1801.
[3] Khi hàng về đến cảng Thành phố Hồ Chí Minh,...
[4] Theo Chứng thư giám định...
[5] Do tỉ lệ nhân hạt điều thu hồi thấp hơn...
[6] … hai bên thỏa thuận khi có tranh chấp áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết.
[7] Quá trình giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng thủ tục…
[8] Căn cứ vào 02 Chứng thư giám định của Vinacontrol…
[9] Đối với việc giải quyết về yêu cầu hủy bỏ L/C số 1801:
[10] Căn cứ theo đề nghị mở L/C trả chậm của Bên mua, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E Chi nhánh Đ đã mở L/C số 1801 ngày 07/7/2011, cụ thể:
[11] - Giá trị L/C: 1.357.790 USD;
[12] - Hình thức của chứng từ: Không hủy ngang;
[13] - Mục đích: mua 1.000 tấn hạt điều thô từ Bờ Biển Ngà;
[14] - Ngân hàng thụ hưởng: Ngân hàng N, Singapore;
[15] - Người thụ hưởng: Công ty B;
[16] - Người yêu cầu: Công ty A;
[17] - Quy tắc áp dụng: UCP phiên bản mới nhất.
[18] Sau đó, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E đã nhận được 03 bộ chứng từ …, cụ thể:
[19], [20], [21]
[22] Sau khi nhận được các bộ chứng từ phù hợp với điều kiện L/C, ..
[23] Theo quy định pháp luật Việt Nam về thanh toán chứng từ, thì:
[24] Tại khoản 4 Điều 3 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, quy định: “Tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngân hàng được quyền thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại, bao gồm: Tập quán thương mại quốc tế do Phòng Thương mại Quốc tế ban hành; tập quán thương mại khác không trái với pháp luật Việt Nam”.
[25] Tại khoản 1 Điều 16 Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26-3-2002 của Ngân hàng Nhà nước về “Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán” quy định: “Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được Ngân hàng mở theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng) để:
[26] Trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền ...
[27] Tại khoản 1 Điều 19 của Quyết định 226 nêu trên quy định: “Thanh toán bằng thư tín dụng: Việc mở, phát hành, sửa đổi, thông báo, xác nhận, kiểm tra chứng từ, thanh toán và quyền, nghĩa vụ của các bên liên quan trong thanh toán thư tín dụng thực hiện theo quy tắc chung về tín dụng chứng từ do Phòng Thương mại Quốc tế ICC ban hành, do các bên tham gia thỏa thuận và theo quy định của pháp luật Việt Nam”.
[28] Mặt khác, tại thư đề nghị mở L/C của Bên mua có thỏa thuận: Quy tắc áp dụng là UCP phiên bản mới nhất. Theo Bản sửa đổi về quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ lần thứ 6 năm 2007 của Phòng Thương mại Quốc tế (UCP 600) thì:
[29] “Tín dụng thư là một sự thỏa thuận, dù cho được mô tả hoặc đặt tên thế nào, là không thể hủy bỏ và theo đó là một sự cam kết chắc chắn của Ngân hàng phát hành để thanh toán khi xuất trình chứng từ phù hợp” (Điều 2).
[30] “Về bản chất, tín dụng là một giao dịch riêng biệt với Hợp đồng mua bán và các hợp đồng khác là cơ sở của tín dụng. Các Ngân hàng không liên quan đến hoặc ràng buộc bởi các hợp đồng như thế, thậm chí ngay cả khi tín dụng có dẫn chiếu đến các hợp đồng như thế. Vì vậy, sự cam kết của một Ngân hàng để thanh toán hoặc thương lượng thanh toán,… không phụ thuộc vào khiếu nại hoặc biện hộ của người yêu cầu phát hành tín dụng phát sinh từ các quan hệ của họ với Ngân hàng phát hành hoặc người thụ hưởng” (Điều 4).
[31] “Ngân hàng giao dịch với chứng từ chứ không phải bằng hàng hóa, dịch vụ hoặc các thực hiện khác mà các chứng từ có liên quan” (Điều 5).
[32] “Ngân hàng phát hành bị ràng buộc không thể hủy bỏ đối với việc thanh toán từ thời điểm Ngân hàng phát hành L/C” (Điều 7).
[33] “Khi ngân hàng phát hành xác định việc xuất trình là phù hợp, thì nó phải thanh toán” (Điều 15a).
[34] Như vậy, theo đơn đề nghị mở L/C của Bên mua và nội dung L/C đã phát hành thì L/C số 1801 là một giao dịch riêng biệt đối với Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 07-6-2011; được chi phối và áp dụng theo UCP 600. Theo quy định của UCP 600, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E với tư cách là Ngân hàng phát hành phải thanh toán khi xác định bộ chứng từ xuất trình là phù hợp tại Ngân hàng.
[35] Về bộ chứng từ của L/C nêu trên quy định: Bộ chứng từ bao gồm...
[36] Quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng N cho rằng đã chiết khấu bộ chứng từ hợp lệ và thanh toán cho Bên bán vào ngày 25/7/2011, ngày 28/7/2011 và ngày 08/8/2011, đồng thời xuất trình các thông báo chiết khấu hóa đơn xuất khẩu để minh chứng cho việc đã thanh toán tiền cho Bên bán. Tuy nhiên, ngoài tài liệu này, Ngân hàng N không xuất trình được bất kỳ tài liệu, giấy tờ nào khác thể hiện việc đã thanh toán tiền cho Bên bán. Do đó, trong trường hợp này, lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định Ngân hàng N đã trả tiền cho Bên bán hay chưa? Nếu đã trả tiền thì số lượng tiền trả là bao nhiêu? Trường hợp nếu Ngân hàng N đã trả tiền cho Bên bán theo L/C số 1801 thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần E phải giải quyết theo yêu cầu của Ngân hàng N. Do những vấn đề nêu trên chưa được làm rõ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại cho rằng phương thức thanh toán bằng L/C số 1801 là một phần không thể tách rời của Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 07/6/2011; do vậy, khi hợp đồng này bị hủy toàn bộ thì các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng; từ đó quyết định L/C số 1801 không còn hiệu lực thanh toán và Ngân hàng Thương mại Cổ phần E không có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N theo L/C nêu trên; đồng thời buộc Ngân hàng Thương mại Cổ phần E phải trả cho bên mua số tiền ký quỹ là 1.313.308,85 USD là chưa đủ cơ sở và chưa đúng với các quy định tại UCP 600.
Các đoạn từ [37] đến [41] chỉ phản ánh thủ tục phúc thẩm, như tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử và cách tính lại số lần triệu tập hợp lệ sau khi tạm đình chỉ.
Nội dung án lệ:
[34] Như vậy, theo đơn đề nghị mở L/C của Bên mua và nội dung L/C đã phát hành thì L/C số 1801 là một giao dịch riêng biệt đối với Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 07/6/2011; được chi phối và áp dụng theo UCP 600. Theo quy định của UCP 600, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E với tư cách là Ngân hàng phát hành phải thanh toán khi xác định bộ chứng từ xuất trình là phù hợp tại Ngân hàng…
[36]…Tòa án cấp sơ thẩm lại cho rằng phương thức thanh toán bằng L/C số 1801 là một phần không thể tách rời của Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 07/6/2011; do vậy, khi hợp đồng này bị hủy toàn bộ thì các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng; từ đó quyết định L/C số 1801 không còn hiệu lực thanh toán và Ngân hàng Thương mại Cổ phần E không có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N theo L/C nêu trên; đồng thời buộc Ngân hàng Thương mại Cổ phần E phải trả cho bên mua số tiền ký quỹ là 1.313.308,85 USD là chưa đủ cơ sở và chưa đúng với các quy định tại UCP 600.

Thạc sĩ, Luật sư Đặng Kim Chinh.
2. Bình luận về Án lệ số 13/2017/AL
Bình luận về viện dẫn quy định pháp luật có liên quan
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, trong phần dẫn chiếu các quy định pháp luật có liên quan đến Án lệ số 13/2017/AL (“Án lệ”), đã viện dẫn Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2005 như một căn cứ pháp lý. Điều luật này quy định: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán;...”.
Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, việc viện dẫn Điều 3 là chưa thực sự phù hợp với tình huống pháp lý của vụ án làm cơ sở hình thành Án lệ (“Vụ án”). Bởi lẽ, điều luật này chỉ được áp dụng khi hội đủ hai điều kiện: (i) pháp luật không có quy định và (ii) các bên không có thỏa thuận.
Trong vụ án, điều kiện (ii) không được đáp ứng, bởi các bên đã có thỏa thuận rõ ràng ngay từ đầu về việc áp dụng UCP 600 – thể hiện trực tiếp trong Thư đề nghị mở thư tín dụng (L/C) của Công ty A, trong đó xác định rõ quy tắc áp dụng là UCP phiên bản mới nhất.
Thỏa thuận áp dụng UCP 600 nói trên có cơ sở pháp lý đầy đủ, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2005 khẳng định nguyên tắc tự do thỏa thuận, theo đó: thỏa thuận hợp pháp – tức không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội – có hiệu lực bắt buộc đối với các bên và phải được tôn trọng.
Thứ hai, khoản 1 Điều 19 Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (ban hành kèm theo Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN) [a] thừa nhận rõ ràng việc các bên được quyền thỏa thuận áp dụng UCP trong thanh toán bằng L/C. Cụ thể: hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng được thực hiện theo các quy tắc chung về tín dụng chứng từ do Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành, do các bên tham gia thanh toán thỏa thuận áp dụng và theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.
Liên quan đến quy định trên, cũng cần lưu ý rằng, tại thời điểm ban hành, Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN được xác định là văn bản quy phạm pháp luật theo điểm c khoản 2 Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 [b].
Từ những căn cứ nêu trên, khẳng định rằng, tại thời điểm phát sinh quan hệ dân sự giữa các bên (năm 2011), pháp luật Việt Nam - bao gồm cả quy định chung và chuyên ngành – đã xác lập đầy đủ cơ sở pháp lý cho việc thỏa thuận áp dụng UCP 600.
Điều cần nhấn mạnh là: Đây không phải là trường hợp áp dụng tập quán trong trường hợp pháp luật không có quy định và các bên không có thỏa thuận, mà là trường hợp các bên chủ động lựa chọn và thỏa thuận áp dụng UCP 600 – một quy tắc chung về tín dụng chứng từ do Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) ban hành đã được pháp luật chuyên ngành thừa nhận.
Ngoài ra, xét về bản chất pháp lý, UCP 600 không phải được áp dụng một cách mặc nhiên do thiếu vắng quy phạm pháp luật, mà chỉ có hiệu lực khi được các bên lựa chọn một cách rõ ràng trong giao dịch. Bản chất pháp lý này được thể hiện tại Điều 1 UCP 600 [c], theo đó UCP 600 là các quy tắc áp dụng cho thư tín dụng khi nội dung của thư tín dụng chỉ ra một cách rõ ràng rằng nó tuân thủ các quy tắc này.
Do đó, Án lệ lẽ ra cần viện dẫn Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2005 (về thỏa thuận) thay vì Điều 3 (về tập quán).
Liên quan đến quy định pháp luật có liên quan đến Án lệ, cũng cần lưu ý rằng Án lệ có hiệu lực từ ngày 15/02/2018, tức sau thời điểm Công ước của Liên Hợp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 (CISG) có hiệu lực tại Việt Nam (ngày 01/01/2017) [d]. Do đó, đối với các tranh chấp phát sinh sau thời điểm này, khi cả bên mua và bên bán đều có trụ sở thương mại tại các quốc gia thành viên CISG (như trong Vụ án là Việt Nam và Singapore), thì CISG sẽ được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng theo khoản 1 Điều 1 CISG [e]. Trong trường hợp này, một trong những quy định được áp dụng để giải quyết tranh chấp là Điều 9 CISG [f], theo đó, các bên bị ràng buộc bởi bất kỳ tập quán thương mại nào đã được thỏa thuận trong hợp đồng.
Bình luận về nội dung án lệ
Nội dung của Án lệ số 13/2017/AL gồm hai đoạn, được trích từ các đoạn 34 và 36 trong phần Nhận định của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao.
Theo quan điểm của tác giả, cả hai đoạn này chưa thực sự đáp ứng đầy đủ các tiêu chí cốt lõi để được lựa chọn làm án lệ theo quy định tại Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP [g] - cơ sở pháp lý điều chỉnh việc lựa chọn án lệ tại thời điểm Án lệ số 13/2017/AL được thông qua.
Đoạn nội dung thứ nhất khẳng định rằng L/C là một giao dịch riêng biệt với hợp đồng mua bán hàng hóa; được chi phối và áp dụng theo UCP 600. Theo quy định của UCP 600, ngân hàng phát hành có nghĩa vụ thanh toán khi xác định bộ chứng từ xuất trình là phù hợp.
Nội dung nêu trên chủ yếu nhằm khẳng định việc áp dụng UCP 600, đồng thời chỉ nhắc lại các nguyên tắc đã được quy định rõ tại các Điều 4, Điều 5, Điều 7 và Điều 15 [h] của văn bản này.
Trong tình huống của Vụ án, các bên đã thỏa thuận rõ ràng việc áp dụng UCP 600, và pháp luật chuyên ngành cũng thừa nhận thỏa thuận này, như đã phân tích. Do đó, Tòa án có trách nhiệm tôn trọng và áp dụng UCP 600 theo thỏa thuận hợp pháp giữa các bên. Trong bối cảnh đó, theo quan điểm của tác giả, đây là cách hiểu duy nhất phù hợp với quy định của pháp luật.
Vì vậy, việc khẳng định áp dụng UCP 600 và nhắc lại các nguyên tắc của văn bản này không thực sự chứa đựng lập luận “làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau” – tiêu chí hàng đầu để một lập luận trong bản án được lựa chọn thành án lệ theo khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP. Bên cạnh đó, nội dung này cũng không thể hiện rõ việc “phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý” theo cùng quy định nêu trên.
Đoạn nội dung thứ hai – bác bỏ nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm rằng L/C bị mất hiệu lực do hợp đồng mua bán hàng hóa bị hủy bỏ – thực chất chỉ là hệ quả tất yếu của đoạn nội dung thứ nhất. Nếu đã xác định L/C có tính độc lập (một giao dịch riêng biệt với hợp đồng mua bán hàng hóa), thì việc hợp đồng bị hủy đương nhiên không ảnh hưởng đến hiệu lực của L/C.
Do đó, đoạn nội dung thứ hai không bổ sung thêm lập luận pháp lý độc lập, mà chỉ đóng vai trò củng cố và nhấn mạnh lập luận đã nêu trong đoạn thứ nhất, nhằm hiệu chỉnh nhận định chưa chính xác của Tòa án cấp dưới.
Với tính chất như vậy, nội dung này sẽ phù hợp hơn nếu được thể hiện dưới hình thức tổng kết rút kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn nghiệp vụ, hoặc ghi nhận trong sổ tay thẩm phán để tham khảo trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Bình luận về ý nghĩa của Án lệ số 13/2017/AL
Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN, có hiệu lực từ ngày 10/4/2002 đến ngày 01/3/2015, là văn bản quy phạm pháp luật duy nhất trong giai đoạn này thừa nhận một cách rõ ràng về thỏa thuận thanh toán bằng L/C theo UCP 600.
Sau đó, Thông tư số 46/2014/TT-NHNN [i] – thay thế Quyết định trên – không còn điều chỉnh về thư tín dụng, khiến việc thỏa thuận áp dụng UCP 600 không còn được pháp luật ghi nhận minh thị cho đến ngày 01/7/2024, khi Thông tư số 21/2024/TT-NHNN [j] có hiệu lực.
Trong suốt khoảng thời gian 9 năm 4 tháng (từ 01/3/2015 đến 01/7/2024) đã tồn tại một khoảng trống pháp lý liên quan đến tính hợp pháp của thỏa thuận áp dụng UCP trong thanh toán bằng L/C. Vấn đề đặt ra là: trong bối cảnh đó, liệu thỏa thuận này có được pháp luật công nhận không?
Nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam là công nhận và tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, với điều kiện là thỏa thuận đó phải hợp pháp - không vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội (khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Từ nguyên tắc này, và vì UCP 600 không liên quan đến vấn đề đạo đức xã hội, nên có thể suy đoán rằng: nếu luật không có quy định cấm, thì thỏa thuận áp dụng UCP 600 phải được xem là hợp pháp.
Tuy nhiên, do UCP 600 là một bộ quy tắc quốc tế có tính kỹ thuật chuyên sâu, nên dù luật không có quy định cấm, việc thỏa thuận áp dụng vẫn có thể gây lúng túng và thiếu thống nhất trong thực tiễn xét xử nếu chưa có văn bản quy phạm pháp luật minh thị thừa nhận việc áp dụng UCP 600.
Xét dưới góc độ pháp luật chuyên ngành, điểm a khoản 4 Điều 3 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 cho phép tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngân hàng được quyền thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại quốc tế do ICC ban hành – vốn được cộng đồng pháp lý, ngân hàng và doanh nghiệp thừa nhận một cách rộng rãi là bao gồm: UCP, URC, URDG và ISP [k].
Tuy vậy, trước ngày 01/7/2024, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào minh thị xác định rằng UCP 600 là tập quán thương mại quốc tế do ICC ban hành, dẫn đến sự thiếu thống nhất và lúng túng trong việc đánh giá hiệu lực pháp lý của thỏa thuận áp dụng UCP 600.
Cụ thể, nếu Tòa án – dù là trường hợp không phổ biến – không thừa nhận UCP 600 là tập quán thương mại quốc tế do ICC ban hành, thì hệ quả kéo theo có thể là không công nhận thỏa thuận áp dụng, và vì thế cho rằng L/C mất hiệu lực khi hợp đồng mua bán hàng hóa bị hủy bỏ.
Theo tác giả, trong bối cảnh pháp luật còn bỏ ngỏ nêu trên, việc Án lệ số 13/2017/AL có hiệu lực từ ngày 15/02/2018 đã phần nào giúp lấp đầy khoảng trống pháp lý về thỏa thuận áp dụng UCP 600, cho dù án lệ này vẫn còn một số hạn chế như đã phân tích.
Tuy không khẳng định một cách rõ ràng rằng UCP 600 là tập quán thương mại quốc tế do ICC ban hành [l], nhưng Án lệ vẫn có giá trị thực tiễn khi khẳng định việc áp dụng UCP 600 trong trường hợp thỏa thuận thanh toán bằng L/C ghi rõ theo quy tắc này, qua đó góp phần củng cố cơ sở để Tòa án áp dụng thống nhất trong thực tiễn xét xử.
Đây chính là điểm tích cực cần được ghi nhận, đặc biệt trong bối cảnh pháp luật Việt Nam đang trong giai đoạn hoàn thiện khung pháp lý đối với các vấn đề kỹ thuật chuyên sâu trong thương mại quốc tế như thư tín dụng.
3. Sự thay đổi của pháp luật ảnh hưởng đến tính phù hợp của Án lệ
Trước hết, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 với một số quy định đáng chú ý liên quan đến việc áp dụng tập quán thương mại quốc tế và nghiệp vụ thư tín dụng, cụ thể như sau:
- Khoản 1 Điều 3 kế thừa nội dung tương ứng tại khoản 4 Điều 3 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, tiếp tục khẳng định: “Tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngân hàng được quyền thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại quốc tế do Phòng Thương mại Quốc tế ban hành.”
- Khoản 36 Điều 4 định nghĩa thư tín dụng là một hình thức cấp tín dụng – thay vì dịch vụ thanh toán như quy định trước đây tại khoản 15 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.
Tiếp theo, Thông tư số 21/2024/TT-NHNN quy định chi tiết về nghiệp vụ thư tín dụng, trong đó có một số nội dung liên quan trực tiếp đến tính phù hợp của Án lệ:
- Khoản 13 Điều 3 định nghĩa rõ ràng rằng: “Tập quán thương mại quốc tế về thư tín dụng là các quy tắc, tập quán, thực hành thống nhất do Phòng Thương mại Quốc tế ban hành về thư tín dụng và tập quán thương mại khác không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam do các bên thỏa thuận lựa chọn.”
- Điều 6 – về áp dụng tập quán và lựa chọn giải quyết tranh chấp – cho phép các bên tham gia nghiệp vụ thư tín dụng được thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng. Trong trường hợp lựa chọn áp dụng tập quán thương mại quốc tế về thư tín dụng, các bên phải dẫn chiếu cụ thể phiên bản áp dụng.
Tóm lại, pháp luật chuyên ngành hiện hành đã xác lập rõ địa vị pháp lý của UCP 600 là tập quán thương mại quốc tế về thư tín dụng, đồng thời bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ và thống nhất cho việc các bên thỏa thuận áp dụng.
Liên quan đến việc áp dụng Án lệ trong xét xử:
- Điều 6 và khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định rằng trong các quan hệ dân sự, thỏa thuận hợp pháp của các bên là căn cứ áp dụng ưu tiên hàng đầu, tiếp theo mới đến quy định pháp luật, tập quán, pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và cuối cùng là lẽ công bằng.
- Đồng thời, Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định rằng án lệ chỉ được áp dụng trong trường hợp không có thỏa thuận giữa các bên, không có quy định pháp luật, không có tập quán và cũng không thể áp dụng tương tự pháp luật.
Do đó, trong các tranh chấp liên quan đến giao dịch L/C theo UCP 600, Tòa án phải áp dụng trực tiếp UCP 600 trên cơ sở thỏa thuận của các bên, phù hợp với thứ tự ưu tiên do pháp luật quy định, thay vì viện dẫn Án lệ số 13/2017/AL như “một bước trung gian” trước khi áp dụng UCP 600.
Ngoài ra, việc xác định lại bản chất pháp lý của L/C là một hình thức cấp tín dụng – thay vì là dịch vụ thanh toán, hoặc “có tính chất lưỡng tính” như từng được nhìn nhận trước đây [m] – cũng cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận pháp lý, qua đó định hình lại khuôn khổ pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa các bên trong giao dịch thư tín dụng, nhất là về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của ngân hàng phát hành.
4. Kết luận và kiến nghị
Án lệ số 13/2017/AL được thông qua trong bối cảnh pháp luật chuyên ngành về thư tín dụng (L/C) còn chưa đầy đủ, nên có giá trị nhất định trong việc bổ sung cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến giao dịch L/C theo UCP 600. Mặc dù tồn tại một số hạn chế về căn cứ viện dẫn và nội dung, án lệ này vẫn có ý nghĩa đáng ghi nhận trong giai đoạn pháp luật chưa hoàn thiện.
Từ ngày 01/7/2024, khi Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 và Thông tư số 21/2024/TT-NHNN chính thức có hiệu lực, pháp luật đã trực tiếp điều chỉnh nghiệp vụ thư tín dụng, đồng thời minh thị thừa nhận rằng UCP là tập quán thương mại quốc tế về thư tín dụng, và quy định cụ thể rằng khi có thỏa thuận áp dụng thì phải dẫn chiếu rõ phiên bản UCP được áp dụng.
Trong bối cảnh pháp lý đã thay đổi, việc tiếp tục áp dụng Án lệ số 13/2017/AL không còn phù hợp với Điều 6 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 – vốn chỉ cho phép áp dụng án lệ khi pháp luật không có quy định và các bên không có thỏa thuận. Điều này đặt ra nhu cầu rà soát mức độ phù hợp của Án lệ trong thực tiễn xét xử hiện nay.
Bên cạnh đó, việc pháp luật hiện hành xác định chính thức rằng L/C là một hình thức cấp tín dụng cũng cho thấy nền tảng pháp lý đã có sự thay đổi đáng kể so với thời điểm Án lệ được thông qua.
Khoản 1 Điều 9 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP [n] quy định: “Án lệ đương nhiên bị bãi bỏ trong trường hợp án lệ không còn phù hợp do có sự thay đổi của pháp luật.”
Tuy nhiên, Nghị quyết này lại chưa quy định rõ cơ chế xác định một án lệ là không còn phù hợp do có sự thay đổi của pháp luật. Cụ thể, vẫn còn bỏ ngỏ các vấn đề như: tiêu chí để xác định tính phù hợp; chủ thể có trách nhiệm rà soát; và đặc biệt là chủ thể có thẩm quyền đưa ra kết luận chính thức về việc này.
Do đó, tác giả kiến nghị:
- Sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP theo hướng thiết lập một cơ chế cụ thể và minh bạch nhằm xác định trường hợp án lệ không còn phù hợp do có sự thay đổi của pháp luật;
- Trên cơ sở đó, nếu xác định Án lệ số 13/2017/AL không còn phù hợp thì cần áp dụng quy định “đương nhiên bị bãi bỏ” theo khoản 1 Điều 9 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP.
Theo tác giả, cơ chế trên là cần thiết nhằm chính thức xác định những án lệ tuy từng có giá trị trong một giai đoạn nhất định nhưng đến nay đã không còn phù hợp do có sự thay đổi của pháp luật, qua đó bảo đảm tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật – vốn chính là mục đích tự thân của án lệ Việt Nam [o], đồng thời góp phần định hướng tuân thủ pháp luật cho cá nhân và tổ chức.
[a] Quyết định 226/2002/QĐ-NHNN về Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán do Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành ngày 26/03/2002 (có hiệu lực từ 10/04/2002 đến 01/03/2015).
Khoản 1 Điều 19 Quy chế nêu rõ “Thanh toán bằng thư tín dụng: việc mở, phát hành, sửa đổi, thông báo, xác nhận, kiểm tra chứng từ, thanh toán và quyền, nghĩa vụ... của các bên liên quan trong thanh toán thư tín dụng thực hiện theo các quy tắc chung về tín dụng chứng từ do Phòng thương mại quốc tế ICC ban hành, do các bên tham gia thanh toán thoả thuận áp dụng và theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.”
[b] Điểm c khoản 2 Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996: “Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: … c) Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ;”
[c] Điều 1 UCP 600: Áp dụng UCP
“Các quy tắc Thực hành Thống nhất về Tín dụng chứng từ, bản sửa đổi 2007, ICC xuất bản số 600 (“UCP”) là các quy tắc áp dụng cho bất kỳ tín dụng chứng từ (“tín dụng”) nào (bao gồm cả thư tín dụng dự phòng trong chừng mực mà các quy tắc này có thể áp dụng) nếu nội dung của tín dụng chỉ ra một cách rõ ràng nó phụ thuộc vào các quy tắc này. Các quy tắc này ràng buộc tất cả các bên, trừ khi tín dụng loại trừ hoặc sửa đổi một cách rõ ràng.”
[d] CISG – United Nations Convention on Contracts for the International Sale of GoodsNgày 24/11/2015, Chủ tịch nước ban hành Quyết định số 2588/2015/QĐ-CTN về việc gia nhập Công ước của Liên Hợp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG);
Ngày 18/12/2015, Quốc hội phê chuẩn việc gia nhập; theo Điều 99 CISG, Công ước có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 01/01/2017.
[e] Khoản 1 Điều 1 CISG:
(1) Công ước này áp dụng đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại thuộc các quốc gia khác nhau:
(a) Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên Công ước; hoặc
(b) Khi các quy tắc trong Tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của quốc gia thành viên Công ước.
[f] Điều 9 CISG:
(1) Các bên bị ràng buộc bởi bất kỳ tập quán nào mà họ đã thỏa thuận và bởi bất kỳ thực tiễn nào đã được thiết lập giữa họ.
(2) Trừ khi có thỏa thuận khác, các bên được coi là đã ngầm định áp dụng cho hợp đồng hoặc việc hình thành hợp đồng của họ những tập quán mà họ biết hoặc buộc phải biết, và trong thương mại quốc tế được các bên trong các hợp đồng cùng loại trong ngành thương mại liên quan biết đến rộng rãi và thường xuyên tuân thủ.
[g] Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ban hành ngày 28/10/2015 (có hiệu lực từ 16/12/2015 đến 15/07/2019).
“Điều 2. Tiêu chí lựa chọn án lệ
Án lệ được lựa chọn phải đáp ứng được các tiêu chí sau đây:
1. Chứa đựng lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể;
2. Có tính chuẩn mực;
3. Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau.”
[h] UCP 600
Điều 4: Tín dụng và hợp đồng
a. Về bản chất, tín dụng là một giao dịch riêng biệt với hợp đồng mua bán hoặc các hợp đồng khác mà có thể là cơ sở của tín dụng. Các ngân hàng không liên quan đến hoặc ràng buộc bởi các hợp đồng như thế, ngay cả khi tín dụng có dẫn chiếu đến các hợp đồng đó. Do đó, sự cam kết của một ngân hàng về việc thanh toán, thương lượng thanh toán hoặc thực hiện bất cứ nghĩa vụ nào khác trong tín dụng không phụ thuộc vào các khiếu nại hoặc biện hộ của người yêu cầu phát hành tín dụng phát sinh từ các quan hệ của họ với ngân hàng phát hành hoặc người thụ hưởng. …
Điều 5: Các chứng từ và hàng hóa/ dịch vụ hoặc thực hiện
Các ngân hàng giao dịch trên cơ sở các chứng từ chứ không phải bằng hàng hóa, dịch vụ hoặc các thực hiện khác mà các chứng từ có liên quan.
Điều 7: Cam kết của ngân hàng phát hành
a. Với điều kiện là các chứng từ quy định được xuất trình tới ngân hàng chỉ định hoặc tới ngân hàng phát hành và với điều kiện việc xuất trình là phù hợp, ngân hàng phát hành phải thanh toán nếu tín dụng có giá trị thanh toán …
b. Ngân hàng phát hành bị ràng buộc không thể hủy bỏ đối với việc thanh toán kể từ khi ngân hàng đó phát hành tín dụng…
Điều 15: Xuất trình phù hợp
a. Khi một Ngân hàng phát hành xác định việc xuất trình là phù hợp, thì nó phải thanh toán.
[i] Thông tư 46/2014/TT-NHNN hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 31/12/2014 (có hiệu lực từ 01/03/2015 đến 01/07/2024).
[j] Thông tư 21/2024/TT-NHNN quy định về nghiệp vụ thư tín dụng và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến thư tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành ngày 28/06/2024 (có hiệu lực từ 01/07/2024)
[k] UCP, URC, URDG và ISP
UCP: Uniform Customs and Practice for Documentary Credits - Quy tắc Thực hành Thống nhất về Tín dụng chứng từ;
URC: Uniform Rules for Collections - Quy tắc Thống nhất về Nhờ thu;
URDG: Uniform Rules for Demand Guarantees - Quy tắc Thống nhất về Bảo lãnh theo yêu cầu;
ISP: International Standby Practices - Thông lệ quốc tế về Bảo lãnh dự phòng
[l] Phần khái quát nội dung của Án lệ số 13/2017/AL có ghi nhận “… thỏa thuận thực hiện L/C theo tập quán thương mại quốc tế (Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ lần thứ 6 năm 2007 – UCP 600 – của Phòng Thương mại Quốc tế) …”. Tuy nhiên, ghi nhận này không thể được coi là sự khẳng định một cách rõ ràng rằng UCP 600 là tập quán thương mại quốc tế do ICC ban hành.
Ngoài ra, theo quan điểm của tác giả, do Án lệ không phải là văn bản quy phạm pháp luật nên cũng không thể đặt ra một quy phạm mang nội dung định nghĩa rằng “UCP 600 là tập quán thương mại quốc tế do ICC ban hành”.
[m] Trước ngày 01/7/2024, bản chất pháp lý của thư tín dụng (L/C) là một trong những vấn đề còn thiếu thống nhất. Cụ thể:
– Khoản 15 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 xác định L/C là hình thức "cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản";
– Khoản 11 Điều 3 Thông tư số 22/2019/TT-NHNN quy định rõ rằng phát hành L/C thuộc hoạt động cấp tín dụng;
– Mục 1.1 Công văn số 583/NHNN-TD ngày 24/01/2024 về thuế GTGT đối với khoản thu từ nghiệp vụ L/C, Ngân hàng Nhà nước nêu rõ đã có nhiều văn bản gửi Bộ Tài chính, trong đó xác định rằng “L/C có tính chất lưỡng tính” – vừa mang tính chất dịch vụ thanh toán, vừa mang tính chất cấp tín dụng.
– Khoản 36 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 hiện hành đã chính thức xác định thư tín dụng là một hình thức cấp tín dụng.
[n] Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ban hành ngày 18/06/2019 (có hiệu lực từ 15/07/2019).
[o] Theo Khoản 3 Điều 2 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP, án lệ được lựa chọn phải đáp ứng tiêu chí: “Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”.
Thạc sĩ, Luật sư ĐẶNG KIM CHINH
Đoàn Luật sư TP. HCM

