/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Bình luận Án lệ số 22/2018/AL về không vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin tình trạng bệnh lý trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

Bình luận Án lệ số 22/2018/AL về không vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin tình trạng bệnh lý trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

09/12/2025 11:13 |

(LSVN) - Thực tiễn không ít trường hợp giữa bên mua bảo hiểm với Công ty bảo hiểm phát sinh tranh chấp liên quan đến “nghĩa vụ cung cấp thông tin tình trạng bệnh lý trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”. Với sự ra đời của Án lệ số 22/2018/AL không những đảm bảo quyền lợi cho gia đình người mua bảo hiểm nhân thọ mà còn giúp Tòa án thống nhất cách xét xử, bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của người mua bảo hiểm nhân thọ trong các trường hợp tương tự. Bài bình luận này sẽ tập trung phân tích rõ tầm quan trọng, sự tác động của Án lệ số 22/2018/AL vào đời sống.

1. Nội dung Án lệ số 22/2018/AL[1]

“[4] Tại câu hỏi số 54 Đơn yêu cầu bảo hiểm ngày 25/3/2009, câu hỏi: “loét đường tiêu hóa, xuất huyết tiêu hóa, viêm tụy, viêm kiết tràng, khó tiêu thường xuyên, khó nuốt, hoặc rối loạn tại dạ dày, ruột gan hoặc túi mật” bà H đánh dấu vào ô không. Tại Biên bản hội chẩn số 42/BV-99 của Bệnh viện B. ngày 03/9/2009 bà H. khai có tiền sử đau dạ dày 02 năm. Căn cứ theo Biên bản hội chẩn thì bà H. có bệnh đau dạ dày từ ngày 03/9/2007 là trước thời điểm bà H. ký Hợp đồng bảo hiểm. Phía Công ty C. cho rằng cụm từ rối loạn tại dạ dày bao gồm tất cả các bệnh liên quan đến dạ dày trong đó có bệnh đau dạ dày. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, phía bị đơn không đưa ra được bất kỳ chứng cứ nào để chứng minh, không đưa ra được một giải thích khoa học nào xác định đau dạ dày chính là rối loạn tại dạ dày.

[8] Căn cứ theo các quy định pháp luật nêu trên thì trong trường hợp các bên có sự giải thích khác nhau không rõ ràng khó hiểu thì Điều khoản này phải được giải thích theo hướng có lợi cho bà H. Như vậy, không đủ cơ sở xác định đau dạ dày được bao gồm trong rối loạn tại dạ dày như Công ty C. trình bày.

[9] Xét thấy, tại đơn yêu cầu bảo hiểm không có câu hỏi về bệnh đau dạ dày. Như vậy, phía Công ty C. cho rằng bà H. bị bệnh đau dạ dày mà không khai báo là cố tình khai báo không trung thực và vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin là không có căn cứ.

[10] Tại câu hỏi 61 của Đơn yêu cầu bảo hiểm ngày 25/3/2009: “Trong vòng 05 năm trở lại đây, ông, bà đã có làm xét nghiệm chẩn đoán như X-quang, siêu âm, điện tim đồ, thử máu, sinh thiết? Hoặc ốm đau, bệnh tật khám y khoa, điều trị tại bệnh viện nhưng chưa được nêu ở phần trên không?” bà H đánh dấu vào ô không. Tại phiên tòa phúc thẩm, phía Công ty C. cung cấp Phiếu xét nghiệm hóa sinh máu đề ngày 22/9/2008 mang tên người bệnh là Trương Thị H. Phía Công ty C. xác định đây là tài liệu do Công ty C. thu thập trong hồ sơ kiểm tra sức khỏe định kỳ cho nhân viên của Trường Mầm non C. nơi trước đây bà H. công tác. Công ty C. cho rằng vào ngày 22/9/2008, bà H. có làm xét nghiệm máu nhưng không khai báo tại câu hỏi số 61, đơn yêu cầu bảo hiểm là bà H. cố tình khai báo không trung thực. Xét thấy, việc kiểm tra sức khỏe định kỳ được các cơ quan, tổ chức thực hiện một cách thường xuyên và định kỳ. Khi tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, người được khám không biết và không buộc phải biết tổ chức khám chữa bệnh đã tiến hành các biện pháp, phương pháp gì. Hơn nữa, khi kiểm tra sức khỏe định kỳ bà H. không phát hiện dấu hiệu của một căn bệnh nào dẫn đến việc Công ty C. từ chối ký kết hợp đồng với bà H. Do đó, không đủ cơ sở xác định bà H. cảm thấy cơ thể bất thường mới tiến hành đi xét nghiệm máu sau đó mua bảo hiểm của Công ty C.

[11] Như vậy, chưa đủ cơ sở xác định bà H. có gian dối khi ký hợp đồng bảo hiểm, không có cơ sở xác định việc bà H. đánh dấu vào ô không của mục 54 và 61 tại Đơn yêu cầu bảo hiểm làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc Công ty C. có xem xét để ký hợp đồng bảo hiểm với bà H. hay không.”

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

2. Bình luận Án lệ số 22/2018/AL

Thực tế không ít trường hợp phát sinh tranh chấp giữa gia đình người mua bảo hiểm với Công ty bán bảo hiểm nhân thọ khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Gia đình người mua bảo hiểm cho rằng thỏa điều kiện để được Công ty bán bảo hiểm nhân thọ bồi thường theo hợp đồng; còn Công ty bán bảo hiểm nhân thọ lại viện lý do “người mua bảo hiểm gian dối khi ký kết hợp đồng bảo hiểm” nên từ chối bồi thường theo hợp đồng; điển hình là vụ án này.

Từ vụ án này, có thể thấy rõ tranh chấp phát sinh xuất phát từ việc các bên không có sự thống nhất cách hiểu từ việc khai báo thông tin liên quan đến sức khỏe của người mua bảo hiểm (trong Đơn yêu cầu bảo hiểm), những câu hỏi về sức khỏe do Công ty bảo hiểm nhân thọ đưa ra chưa rõ ràng, chi tiết.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 407 của Bộ luật Dân sự năm 2005[2], trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó. Như vậy, đối với vụ án này thì hợp đồng mẫu do Công ty bảo hiểm nhân thọ soạn thảo và có nội dung không rõ ràng thì phải chịu sự bất lợi về phần mình, cần đảm bảo quyền và lợi ích cho bên mua bảo hiểm nhân thọ.

Với sự ra đời của Án lệ số 22/2018/AL không những đảm bảo quyền lợi cho gia đình người mua bảo hiểm nhân thọ mà còn giúp Tòa án thống nhất cách xét xử, bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của người mua bảo hiểm nhân thọ trong các trường hợp tương tự. Cụ thể, tại câu hỏi số 54 Đơn yêu cầu bảo hiểm ngày 25/3/2009, câu hỏi: “loét đường tiêu hóa, xuất huyết tiêu hóa, viêm tụy, viêm kiết tràng, khó tiêu thường xuyên, khó nuốt, hoặc rối loạn tại dạ dày, ruột gan hoặc túi mật” bà H đánh dấu vào ô không. Tại biên bản hội chẩn số 42/BV-99 của Bệnh viện B ngày 03/9/2009 bà H. khai có tiền sử đau dạ dày 02 năm. Căn cứ theo Biên bản hội chẩn thì bà H. có bệnh đau dạ dày từ ngày 03/9/2007 là trước thời điểm bà H. ký Hợp đồng bảo hiểm. Phía Công ty C. cho rằng, cụm từ rối loạn tại dạ dày bao gồm tất cả các bệnh liên quan đến dạ dày trong đó có bệnh đau dạ dày. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, phía bị đơn không đưa ra được bất kỳ chứng cứ nào để chứng minh, không đưa ra được một giải thích khoa học nào xác định đau dạ dày chính là rối loạn tại dạ dày. Căn cứ theo các quy định pháp luật nêu trên thì trong trường hợp các bên có sự giải thích khác nhau không rõ ràng, khó hiểu thì Điều khoản này phải được giải thích theo hướng có lợi cho bà H. Như vậy, không đủ cơ sở xác định đau dạ dày được bao gồm trong rối loạn tại dạ dày như Công ty C trình bày. Xét thấy, tại đơn yêu cầu bảo hiểm không có câu hỏi về bệnh đau dạ dày. Như vậy, phía Công ty C. cho rằng bà H. bị bệnh đau dạ dày mà không khai báo là cố tình khai báo không trung thực và vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin là không có căn cứ.

Đồng thời, tại Án lệ số 22/2018/AL còn đề cập đến một nội dung khác hay thường xảy ra trong thực tế. Đó là, tại câu hỏi 61 của Đơn yêu cầu bảo hiểm ngày 25/3/2009: “Trong vòng 05 năm trở lại đây, ông, bà đã có làm xét nghiệm chẩn đoán như X-quang, siêu âm, điện tim đồ, thử máu, sinh thiết? Hoặc ốm đau, bệnh tật khám y khoa, điều trị tại bệnh viện nhưng chưa được nêu ở phần trên không?” bà H. đánh dấu vào ô không. Tại phiên tòa phúc thẩm, phía Công ty C. cung cấp Phiếu xét nghiệm hóa sinh máu đề ngày 22/9/2008 mang tên người bệnh là Trương Thị H. Phía Công ty C. xác định đây là tài liệu do Công ty C. thu thập trong hồ sơ kiểm tra sức khỏe định kỳ cho nhân viên của Trường Mầm non C. nơi trước đây bà H. công tác. Công ty C. cho rằng vào ngày 22/9/2008, bà H. có làm xét nghiệm máu nhưng không khai báo tại câu hỏi số 61 Đơn yêu cầu bảo hiểm là bà H. cố tình khai báo không trung thực. Xét thấy, việc kiểm tra sức khỏe định kỳ được các cơ quan, tổ chức thực hiện một cách thường xuyên và định kỳ. Khi tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, người được khám không biết và không buộc phải biết tổ chức khám chữa bệnh đã tiến hành các biện pháp, phương pháp gì. Hơn nữa, khi kiểm tra sức khỏe định kỳ bà H. không phát hiện dấu hiệu của một căn bệnh nào dẫn đến việc Công ty C. từ chối ký kết hợp đồng với bà H. Do đó, không đủ cơ sở xác định bà H. cảm thấy cơ thể bất thường mới tiến hành đi xét nghiệm máu sau đó mua bảo hiểm của Công ty C. Như vậy, chưa đủ cơ sở xác định bà H. có gian dối khi ký hợp đồng bảo hiểm, không có cơ sở xác định việc bà H. đánh dấu vào ô không của mục 54 và 61 tại Đơn yêu cầu bảo hiểm làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc Công ty C có xem xét để ký hợp đồng bảo hiểm với bà H. hay không.

Thông qua vụ án này, các Công ty bảo hiểm nhân thọ cần phải soạn thảo hợp đồng mẫu một cách rõ ràng, chi tiết (đặc biệt là phần câu hỏi về sức khỏe của khách hàng). Có như vậy, mới đảm bảo được quyền lợi chính đáng của các bên, tránh tranh chấp phát sinh gây tốn kém thời gian, tiền bạc cho Công ty bảo hiểm nhân thọ, gia đình của người mua bảo hiểm.

Tòa án có thể áp dụng Án lệ số 22/2018/AL vào các vụ án có tính tương tự. Đơn cử như sau:

- Trong vụ án này liên quan đến những câu hỏi về tình trạng sức khỏe của dạ dày không rõ ràng; trường hợp những câu hỏi về tình trạng sức khỏe khác (như là tim, gan, phổi…) thì cũng coi là có tính tương tự.

- Trong vụ án này tranh chấp phát sinh khi Bộ luật Dân sự năm 2005 đang có hiệu lực thi hành; trường hợp tranh chấp phát sinh lúc Bộ luật Dân sự năm 2015 đang có hiệu lực thi hành thì cũng coi là có tính tương tự.

[1] Án lệ này được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06/11/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

[2] Quy định về vấn đề này tại khoản 2 Điều 407 của Bộ luật Dân sự năm 2005 tương ứng với quy định tại khoản 2 Điều 405 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Luật sư PHẠM THANH HỮU

Đoàn Luật sư TP. HCM

Các tin khác