/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Pháp luật về giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại trọng tài thương mại

Pháp luật về giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại trọng tài thương mại

08/12/2025 10:16 |

(LSVN) - Trong bối cảnh các giao dịch về chuyển nhượng quyền sử dụng đất gia tăng mạnh cùng sự phát triển của thị trường bất động sản, các tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng đất đai ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Trước bối cảnh bức thiết đó, Luật Đất đai 2024 lần đầu tiên thừa nhận thẩm quyền của Trọng tài thương mại đối với các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai, đánh dấu bước chuyển quan trọng trong tư duy lập pháp và tạo cơ sở pháp lý mới cho các chủ thể lựa chọn trọng tài thay thế tòa án. Vì vậy, bài viết sẽ tập trung nghiên cứu những cơ sở lý luận, quy định pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất qua trọng tài được đưa ra trọng tài và phân tích thực tiễn thi hành và đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai bằng trọng tài thương mại.

1. Đặt vấn đề

Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt và nguồn lực trọng yếu của nền kinh tế, luôn giữ vị trí trung tâm trong chính sách pháp luật của Nhà nước. Cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, nhu cầu chuyển dịch, khai thác và tích tụ quyền sử dụng đất ngày càng gia tăng, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) trở thành một trong những loại giao dịch phổ biến, có giá trị kinh tế lớn và tiềm ẩn nhiều rủi ro pháp lý. Thực tiễn cho thấy, tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diễn ra ngày càng đa dạng, phức tạp, không chỉ gắn với quan hệ đất đai thuần túy mà còn gắn với hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại. Việc lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, kịp thời, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đồng thời góp phần ổn định trật tự quản lý, sử dụng đất đai là yêu cầu đặt ra bức thiết. Bên cạnh con đường Tòa án, Trọng tài thương mại với các ưu thế về tính linh hoạt, bảo mật, chuyên môn và sự tôn trọng thỏa thuận của các bên, ngày càng được nhìn nhận như một phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp với thông lệ quốc tế.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc. Về phương diện pháp lý, cần được làm rõ các vấn đề như: phạm vi tranh chấp thuộc thẩm quyền của Trọng tài khi gắn với hoạt động kinh doanh, thương mại; tính chất “quyền tài sản” của quyền sử dụng đất trong bối cảnh đất đai thuộc sở hữu toàn dân; điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; sự thống nhất, tương thích giữa Luật Đất đai 2024, Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS), Luật Thương mại và Luật Trọng tài thương mại. Về phương diện thực tiễn, số lượng vụ việc được giải quyết tại Trọng tài còn hạn chế; một số phán quyết trọng tài gặp khó khăn khi được yêu cầu công nhận và cho thi hành; nhận thức và kỹ năng pháp lý của các chủ thể liên quan còn chưa đồng đều.

Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Trọng tài thương mại; phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành để chỉ ra những bất cập, nguyên nhân và đề xuất kiến nghị hoàn thiện là cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.

2. Cơ sở lý luận về giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Trọng tài thương mại

2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Trọng tài thương mại

Dựa theo khái niệm tại Điều 500 BLDS 2015 về hợp đồng về quyền sử dụng đất và khoản 12 Điều 3 Luật Đất Đai 2024 về chuyển quyền sử dụng đất, có thể hiểu hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là thỏa thuận bằng văn bản giữa bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng, bên chuyển nhượng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất cho bên nhận chuyển nhượng và nhận lại một khoản tiền theo thỏa thuận, đồng thời bên nhận chuyển nhượng phải đảm bảo các nghĩa vụ như thanh toán cho bên chuyển nhượng đúng thời hạn và phương thức thỏa thuận trong hợp đồng. Về bản chất, tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là tranh chấp hợp đồng dân sự có đối tượng là QSDĐ, bao gồm tranh chấp về hiệu lực hợp đồng, quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng, bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm,... Chính vì vậy, tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ không thuộc diện bắt buộc phải hòa giải tại UBND cấp xã như “tranh chấp đất đai” quy định tại khoản 2 Điều 235 Luật Đất đai 2024 mà có thể lựa chọn nhiều hình thức hòa giải khác, trong đó có hình thức hòa giải bằng Trọng tài.

Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn, được tiến hành theo quy định của pháp luật về trọng tài. Giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Trọng tài thương mại là việc các bên đưa tranh chấp nói trên ra giải quyết bằng phương thức trọng tài theo thỏa thuận đã có giữa các bên. Trong quá trình này, các bên sẽ lựa chọn hoặc chỉ định một Hội đồng trọng tài (có thể thông qua một trung tâm trọng tài hoặc trọng tài vụ việc) để giải quyết tranh chấp. Phán quyết do Trọng tài đưa ra có hiệu lực ràng buộc đối với các bên tương tự như bản án của Tòa án, và được pháp luật công nhận, cho thi hành nếu không bị hủy theo quy định pháp luật. Việc giải quyết tranh chấp tại Trọng tài thương mại mang tính chất tư pháp tư, dựa trên sự thỏa thuận tự nguyện của các bên, cho phép quy trình linh hoạt, bảo mật và thường nhanh chóng hơn so với tố tụng tòa án.

2.2. Điều kiện chung để tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài thương mại

Để một tranh chấp nói chung và tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói riêng có thể đưa ra giải quyết tại Trọng tài thương mại, pháp luật đòi hỏi một số điều kiện nhất định về loại tranh chấp và thỏa thuận trọng tài, cũng như giới hạn bởi trật tự công. Cụ thể:

Thứ nhất, điều kiện về tính chất thương mại của tranh chấp. Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ chỉ được giải quyết tại Trọng tài thương mại nếu nó có bản chất thương mại. Theo Điều 2 Luật Trọng tài thương mại 2010, trọng tài chỉ có thẩm quyền đối với: (a) tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (b) tranh chấp giữa các bên mà ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (c) tranh chấp khác được pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ phải mang mục đích kinh doanh, sinh lợi thì tranh chấp từ hợp đồng đó mới được coi là tranh chấp kinh doanh thương mại và thuộc phạm vi trọng tài. Điều này phù hợp với định nghĩa “hoạt động thương mại” tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005. Khoản 5 Điều 236 Luật Đất đai 2024 cũng quy định những tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai có thể giải quyết bằng Trọng tài thương mại hoặc Tòa án, tùy theo thỏa thuận của các bên. Như vậy, yếu tố thương mại của tranh chấp là điều kiện tiên quyết để có thể giải quyết bằng Trọng tài thương mại.

Thứ hai, điều kiện về thỏa thuận trọng tài. Để tranh chấp được giải quyết tại trọng tài thương mại là phải tồn tại thỏa thuận trọng tài hợp lệ giữa các bên. Thỏa thuận trọng tài thường được thiết lập dưới dạng một điều khoản trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc bằng một thỏa thuận riêng bằng văn bản, trong đó các bên bày tỏ rõ ý chí lựa chọn phương thức trọng tài để giải quyết mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng. Theo Điều 16 Luật Trọng tài thương mại 2010, thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản; hoặc các hình thức khác quy định tại khoản 2 Điều này. Đồng thời, nội dung và chủ thể của Thỏa thuận trọng tài cũng phải có tính hợp pháp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.

Thứ ba, điều kiện về sự cho phép của pháp luật chuyên ngành và khả năng thi hành phán quyết trọng tài. Bên cạnh điều kiện về tính chất thương mại của tranh chấp và sự tồn tại của một thỏa thuận trọng tài hợp lệ, để tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có thể được giải quyết tại Trọng tài thương mại, còn cần bảo đảm một điều kiện quan trọng khác là tranh chấp đó không bị pháp luật đất đai loại trừ khả năng lựa chọn phương thức Trọng tài. Đồng thời, do trọng tài có thể tuyên buộc các bên thực hiện nghĩa vụ thanh toán, bồi thường thiệt hại, tiếp tục hoặc chấm dứt thực hiện hợp đồng, nhưng không thể ban hành các quyết định mang tính quyền lực công hoặc thay thế cơ quan nhà nước trong việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền sử dụng đất bằng quyết định hành chính nên buộc các tranh chấp được đưa ra trọng tài cần có nội dung và phạm vi yêu cầu phù hợp với khả năng thi hành của phán quyết trọng tài.

3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Trọng tài thương mại

Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp cảu Trọng tài, Luật Đất đai 2024 lần đầu tiên công nhận trọng tài thương mại là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Cụ thể, theo khoản 5 Điều 236 Luật Đất đai 2024, tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai có thể được đưa ra Tòa án nhân dân hoặc Trọng tài thương mại Việt Nam (theo quy định của Luật Trọng tài Thương mại 2010) giải quyết. Đồng thời, theo khoản 1 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại 2010, chỉ những tranh chấp “giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại” hoặc “ít nhất một bên có hoạt động thương mại” mới thuộc thẩm quyền của trọng tài. Điều này đòi hỏi phải phân biệt rõ ràng giữa giao dịch dân sự thuần túy, như chuyển nhượng QSDĐ giữa hai cá nhân không vì mục đích kinh doanh và giao dịch mang tính chất thương mại như chuyển nhượng QSDĐ trong các dự án đầu tư, phát triển hạ tầng, hoặc kinh doanh bất động sản. Trong trường hợp không thỏa mãn yếu tố thương mại, hoặc một bên là cơ quan nhà nước trong giao dịch hành chính như thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận, tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án hoặc giải quyết hành chính, thay vì trọng tài. Như vậy, trong trường hợp tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phát sinh từ hoạt động thương mại thì sẽ thuộc thẩm quyền của Trọng tài. Bên cạnh đó, Luật Đất đai 2024 cũng quy định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân trong việc cung cấp tài liệu và thông tin liên quan khi trọng tài có yêu cầu, để phục vụ cho quá trình giiar quyết tranh chấp giữa các bên đạt hiệu quả cao.

Về điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, Điều 5 Luật Trọng tài Thương mại 2010 quy định chỉ giải quyết tranh chấp nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Đồng thời, các thoả thuận trọng tài này phải được xác lập bằng văn bản hoặc các hình thức có giá trị tương đương. Tức là, để tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được giải quyết tại trọng tài, hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng đó phải chứa điều khoản trọng tài hoặc các bên phải đồng thuận ký kết thỏa thuận trọng tài sau khi tranh chấp phát sinh.

Về hiệu lực và tính ràng buộc của thoả thuận trọng tài, Luật Đất đai 2024 đã có sự đồng bộ với Luật Trọng tài thương mại. theo điểm b khoản 1 Điều 45 Luật Đất đai 2024, một trong những điều kiện để thực hiện các giao dịch về đất đai là khi tranh chấp đã “được giải quyết bởi quyết định hoặc phán quyết của Trọng tài đã có hiệu lực pháp luật”. Tương tự, điểm m khoản 1 Điều 28 cũng công nhận phán quyết của Trọng tài thương mại là căn cứ hợp pháp để tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Các quy định này khẳng định giá trị pháp lý của các phán quyết trọng tài trong giải quyết tranh chấp về đất đai thuộc thẩm quyền của mình. Trên thực tế, sau khi có phán quyết trọng tài, bên thắng kiện có thể yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự tổ chức thi hành nếu bên thua không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ, hoặc tiến hành thủ tục đăng ký biến động đất đai theo quy trình hành chính. Cụ thể, Dịch vụ công quốc gia đã tích hợp thủ tục đăng ký biến động quyền sử dụng đất trên cơ sở “quyết định hoặc phán quyết của Trọng tài thương mại Việt Nam” với thời gian giải quyết là 08 ngày làm việc. Như vậy, xét về pháp lý, phán quyết trọng tài về hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ được Nhà nước công nhận và có thể thi hành như bản án, quyết định của tòa án.

Về quy trình tố tụng và thi hành phán quyết trọng tài, dù Luật Đất đai 2024 quy định bắt buộc hòa giải tại địa phương trước khi khởi kiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng do trọng tài không phải là cơ quan nhà nước, các bên không cần phải tiến hành hòa giải tại UBND cấp xã trước khi đưa tranh chấp ra trọng tài. Tức là, hoà giải không phải thủ tục bắt buộc trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Trọng tài thương mại. Trong quá trình tố tụng, Hội đồng trọng tài làm theo quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài và Hiến chương Trung tâm tương ứng. Bên cạnh đó, phán quyết của Hội đồng trọng tài phải được lập thành văn bản, có đầy đủ nội dung theo Điều 61 Luật Trọng tài Thương mại 2010 và là chung thẩm, có hiệu lực từ ngày ban hành. Về thi hành phán quyết trọng tài, đối với Trọng tài vụ việc, để thi hành, bên có yêu cầu có thể đăng ký phán quyết trọng tài tại Tòa án nơi ban hành sau đó đề nghị Cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Còn đối với Trọng tài quy chế, các bên chỉ cần làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.

4. Đánh giá thực tiễn thi hành và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Trọng tài thương mại

4.1. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Trọng tài thương mại

Trong thực tiễn, mặc dù trọng tài thương mại là một phương thức xử lý tranh chấp hiệu quả, song hiện nay các thống kê công khai chưa chi tiết về việc giải quyết tranh chấp liên quan đến QSDĐ nói chúng và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói riêng tại trọng tài. Tuy nhiên, báo cáo của các trung tâm trọng tài cho thấy tranh chấp bất động sản chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số vụ. Ví dụ, VIAC ghi nhận năm 2024 có 478 vụ tranh chấp mới, trong đó khoảng 14% thuộc lĩnh vực bất động sản, xây dựng (trong đó bao gồm tranh chấp chuyển nhượng QSDĐ). Điều này cho thấy xu hướng ngày càng nhiều doanh nghiệp chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến đất đai. Ngoài ra, các tranh chấp về chuyển nhượng QSDĐ thường xuất hiện trong các hợp đồng giữa các doanh nghiệp bất động sản với nhau, hoặc giữa doanh nghiệp và cá nhân trong bối cảnh kinh doanh, nên dễ thỏa mãn “yếu tố thương mại” để trọng tài nhận thụ lý.

Về mặt tích cực, trọng tài thương mại đem lại nhiều lợi thế cho doanh nghiệp và bên tranh chấp. Phương thức này cho phép các bên chủ động chọn trọng tài viên, giữ bí mật thông tin và thường có thủ tục linh hoạt hơn tòa án. Phán quyết trọng tài đã được công nhận là chung thẩm và có hiệu lực tức khắc, nên có thể đem lại kết quả nhanh hơn trong việc ổn định tình hình tài sản, hoạt động kinh doanh so với chờ xét xử tại tòa. Ngoài ra, Trọng tài cũng giảm tải đáng kể cho hệ thống tòa án, đồng thời tạo niềm tin cho các bên là phán quyết sẽ được Nhà nước công nhận.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy nhiều khó khăn, hạn chế trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Trọng tài. Thứ nhất, mong muốn thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ chưa cao, nhất là giữa cá nhân và doanh nghiệp nhỏ. Nhiều tranh chấp đất đai mang tính chất dân sự thuần túy, không mục đích kinh doanh nên không thỏa mãn khái niệm “hoạt động thương mại” theo Luật Thương mại 2005 và Luật Trọng tài 2010. Vì vậy, những tranh chấp này theo quy định phải giải quyết tại tòa án hoặc thông qua hòa giải ở cơ sở chứ không thể đưa ra trọng tài. Do đó, xác định giới hạn ranh giới giữa “hoạt động thương mại liên quan đất đai” và tranh chấp hành chính trong thực tế còn gây lúng túng cho các bên. Thứ hai, dù luật đã cho phép thi hành phán quyết trọng tài, việc phối hợp với các cơ quan nhà nước vẫn còn gặp khó khăn. Theo Luật Đất đai 2024, UBND phải cung cấp hồ sơ, tài liệu địa chính khi được trọng tài yêu cầu. Trên thực tế, việc này có thể mất thời gian. Cụ thể, trong một số trường hợp đất đã được người dân hoặc hộ gia đình sử dụng ổn định qua nhiều thế hệ nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay hồ sơ địa chính lưu trữ không đầy đủ, không thống nhất giữa các thời kỳ. Ngoài ra, ranh giới thửa đất tại nhiều địa phương vẫn mang tính ước lệ, phụ thuộc vào mô tả truyền miệng hoặc mốc giới tự phát, dẫn đến việc xác minh thực địa trở nên khó khăn và tốn thời gian. Khi trọng tài yêu cầu cơ quan quản lý đất đai cung cấp hồ sơ, bản trích đo hoặc tài liệu địa chính để phục vụ quá trình tố tụng, việc thiếu đồng bộ dữ liệu hoặc phải kiểm tra lại hiện trạng thường khiến thời gian xử lý kéo dài đáng kể. Điều này trái ngược với ưu điểm truyền thống của trọng tài là linh hoạt và tốc độ giải quyết nhanh hơn so với tòa án, từ đó làm giảm hiệu quả thực tiễn của phương thức này trong các tranh chấp liên quan đến đất đai.

4.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Trọng tài thương mại

Để cơ chế giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Trọng tài thương mại vận hành hiệu quả hơn trong thực tiễn, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật là hết sức cần thiết.

Trước hết, cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn làm rõ khái niệm “hoạt động thương mại liên quan đến đất đai” theo Điều 236 Luật Đất đai 2024, nhằm phân định rạch ròi những trường hợp tranh chấp đủ điều kiện đưa ra trọng tài và những trường hợp thuộc thẩm quyền bắt buộc của Tòa án hoặc cơ quan hành chính. Việc định nghĩa chưa rõ ràng khiến các bên dễ rơi vào rủi ro lựa chọn sai phương thức giải quyết, dẫn đến bị bác thẩm quyền hoặc kéo dài quá trình tố tụng.

Bên cạnh đó, pháp luật cần bổ sung cơ chế phối hợp rõ ràng hơn giữa trọng tài và cơ quan quản lý đất đai, đặc biệt là nghĩa vụ cung cấp thông tin, hồ sơ địa chính, bản đồ đo đạc và xác nhận hiện trạng. Do đó, tác giả đề xuất cần xây dựng một quy trình phối hợp liên thông giữa trọng tài và hệ thống quản lý đất đai, bao gồm: thời hạn cụ thể để cung cấp thông tin; quyền yêu cầu đo đạc, xác minh hiện trạng của trọng tài; chế tài đối với trường hợp cơ quan nhà nước chậm trễ hoặc từ chối cung cấp dữ liệu không có căn cứ; cũng như cơ chế số hóa và chuẩn hóa hồ sơ địa chính nhằm rút ngắn thời gian tìm kiếm và xác thực thông tin.

Cuối cùng, để bảo đảm hiệu quả thi hành trên thực tế, Nhà nước cần tăng cường tập huấn, hướng dẫn các cơ quan đăng ký đất đai trong việc tiếp nhận và xử lý phán quyết trọng tài, bảo đảm phán quyết được ghi nhận và thi hành thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Bên cạnh đó, cần thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát và đánh giá mức độ tuân thủ, đồng thời công khai quy trình chuẩn trên hệ thống dịch vụ công quốc gia để người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận. Chỉ khi phán quyết trọng tài được ghi nhận và xử lý một cách nhất quán ở mọi địa phương, trọng tài thương mại mới có thể phát huy đầy đủ vai trò là phương thức giải quyết tranh chấp nhanh chóng, linh hoạt và hiệu quả trong lĩnh vực đất đai.

5. Kết luận

Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ tại Trọng tài thương mại phù hợp với xu hướng hội nhập và nhu cầu bảo đảm an toàn pháp lý cho giao dịch đất đai. Pháp luật hiện hành đã mở ra cơ sở cho Trọng tài nhưng vẫn còn những vướng mắc nhất định. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm sự thống nhất giữa Luật Đất đai, BLDS, Luật Thương mại và Luật Trọng tài thương mại. Đồng thời, phải nâng cao nhận thức, kỹ năng của các chủ thể liên quan để Trọng tài thực sự trở thành phương thức hiệu quả trong giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ.

Tài liệu tham khảo:

  1. Quốc hội (2010), Luật số 54/2010/QH12: Luật Trọng tài thương mại, ban hành ngày 17 tháng 6 năm 2010.
  2. Quốc hội (2024), Luật số 31/2024/QH15: Luật Đất đai, ban hành ngày 18 tháng 1 năm 2024.
  3. https://dichvucong.gov.vn/p/home/dvc-chi-tiet-thu-tuc-hanh-chinh.html?ma_thu_tuc=1.013980#:~:text=Th%E1%BB%9Di%20gian%20gi%E1%BA%A3i%20quy%E1%BA%BFt%20kh%C3%B4ng,th%E1%BB%A7%20t%E1%BB%A5c%20%C4%91%C4%83ng%20k%C3%BD%20bi%E1%BA%BFn
  4. https://ngo-partners.com/tin-tuc/trong-tai-thuong-mai-trong-giai-quyet-tranh-chap-ve-dat-dai-tai-viet-nam-giai-phap-linh-hoat-va-hien-dai/.
  5. https://www.viac.vn/thong-ke#:~:text=Trong%20n%C4%83m%202024%20%2C%20VIAC,14.

TRẦN QUANG SÁNG

Sở Tài chính tỉnh Khánh Hòa.

Các tin khác