Chiều

10/04/2022 03:08 |

(LSVN) -

Quốc tế cam kết hỗ trợ người dân Ukraine hơn 10 tỉ euro 

(LSVN) - Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) Ursula von der Leyen ngày 09/4 thông báo sự kiện gây quỹ tại Ba Lan nhằm hỗ trợ người dân Ukraine bị ảnh hưởng bởi xung đột đã nhận được cam kết hỗ trợ quyên góp, vay và trợ cấp từ cộng đồng quốc tế lên tới 10,1 tỉ euro.

Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) Ursula von der Leyen. Ảnh tư liệu: THX/TTXVN.

Phát biểu tại cuộc họp báo về sự kiện do EC và chính phủ Canada đồng tổ chức, bà Ursula von der Leyen cho biết chương trình đã gây quỹ được 9,1 tỉ euro cho người dân Ukraine phải rời bỏ nhà cửa đi lánh nạn cả ở trong và ngoài nước, cùng với 1 tỉ euro cam kết từ Ngân hàng Tái thiết và phát triển châu Âu (EBRD). Chủ tịch EC cũng cam kết sẽ còn nhiều khoản hỗ trợ khác dành cho người dân Ukraine.

Cụ thể, theo chương trình gây quỹ này, các chính phủ, doanh nghiệp và cá nhân đã cam kết hỗ trợ 4,1 tỉ euro, phần lớn sẽ được phân phối qua chính phủ Ukraine và Liên hợp quốc. Trong khi đó, các thể chế tài chính của EU sẽ cung cấp các khoản cho vay và trợ cấp 5 tỉ euro, nhằm hỗ trợ về nhà ở, giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho những người tị nạn Ukraine tới các quốc gia EU.

Theo EC, đã có hơn 4,4 triệu người Ukraine rời bỏ đất nước lánh nạn ở các nước láng giềng thuộc Liên minh châu Âu (EU), trong khi 6,5 triệu người phải sơ tán ở trong nước do xung đột.

TTXVN

Người lao động được nghỉ thế nào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương và 30/4 - 01/5?

1. Phương pháp, quy trình xác định điều kiện lao động

(LSVN) - Vừa qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư 29/2021/TT-BLĐTBXH ngày 28/12/2021, quy định tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động. Trong đó quy định rõ về phương pháp, quy trình xác định điều kiện lao động.

Thông tư này quy định tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động. Trong đó, tại Điều 6 Thông tư quy định rõ phương pháp, quy trình xác định điều kiện lao động. Cụ thể, thực hiện việc đánh giá, xác định điều kiện lao động theo quy trình sau:

Thứ nhất, xác định tên nghề, công việc cần đánh giá, xác định điều kiện lao động.

Thứ hai, đánh giá điều kiện lao động theo hệ thống chỉ tiêu về điều kiện lao động:

Bước 1: Xác định các yếu tố có tác động sinh học đến người lao động trong hệ thống chỉ tiêu về điều kiện lao động quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư này (sau đây gọi tắt là Phụ lục I).

Bước 2: Lựa chọn ít nhất 06 (sáu) yếu tố đặc trưng tương ứng với mỗi nghề, công việc. Các yếu tố này phải bảo đảm phản ánh đủ 3 nhóm yếu tố trong hệ thống chỉ tiêu về điều kiện lao động quy định tại Phụ lục I.

Bước 3: Chọn 01 (một) chỉ tiêu đối với mỗi yếu tố đặc trưng đã chọn tại Bước 2 để tiến hành đánh giá và cho điểm, trên cơ sở bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

- Thang điểm để đánh giá mức độ nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm của từng yếu tố là thang điểm 6 (sáu) quy định tại Phụ lục I. Mức độ nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm càng lớn thì điểm càng cao.

- Thời gian tiếp xúc của người lao động với các yếu tố dưới 50% thời gian của ca làm việc thì điểm số hạ xuống 01 (một) điểm. Đối với hóa chất độc, điện từ trường, rung, ồn, bức xạ ion hóa, thay đổi áp suất, yếu tố gây bệnh truyền nhiễm thì điểm xếp loại hạ xuống 01 (một) điểm khi thời gian tiếp xúc dưới 25% thời gian của ca làm việc.

- Đối với các yếu tố quy định thời gian tiếp xúc cho phép thì hạ xuống 01 (một) điểm nếu thời gian tiếp xúc thực tế khi làm việc dưới 50% thời gian tiếp xúc cho phép.

- Đối với những yếu tố có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu (từ 02 chỉ tiêu trở lên) để đánh giá thì chỉ chọn 01 chỉ tiêu chính để đánh giá và cho điểm; có thể đánh giá các chỉ tiêu khác nhằm tham khảo, bổ sung thêm số liệu cho chỉ tiêu chính.

Bước 4: Tính điểm trung bình các yếu tố theo công thức:

Trong đó:

 Điểm trung bình cộng của các yếu tố.

n: Số lượng yếu tố đã tiến hành đánh giá tại Bước 3 (n≥6)

X1, X2,...Xn: Điểm của yếu tố thứ nhất, thứ hai,...thứ n.

Bước 5: Tổng hợp kết quả vào phiếu theo mẫu quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư này và xác định điều kiện lao động theo điểm trung bình các yếu tố () như sau:

 ≤ 1,01: Điều kiện lao động loại I;

- 1,01 <≤ 2,22: Điều kiện lao động loại II;

- 2,22 <≤ 3,37: Điều kiện lao động loại III;

- 3,37 <≤ 4,56: Điều kiện lao động loại IV;

- 4,56 <≤ 5,32: Điều kiện lao động loại V;

 > 5,32: Điều kiện lao động loại VI.

Thông tư 29/2021/TT-BLĐTBXH này có hiệu lực từ ngày 15/4/2022.

HỒNG HẠNH

Quy định tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động

2. Điều kiện và thủ tục phát hành trái phiếu theo quy định pháp luật?

(LSVN) - Pháp luậy quy định như thế nào về điều kiện và thủ tục phát hành trái phiếu? Bạn đọc P.O. hỏi.

Ảnh minh họa.

Theo Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng Luật sư Chính Pháp, việc chào bán chứng khoán có 2 phương thức: chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức sau đây: Chào bán thông qua phương tiện thông tin đại chúng; Chào bán cho từ 100 nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; Chào bán cho các nhà đầu tư không xác định.

Chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc chào bán chứng khoán không thuộc trường hợp trên và theo một trong các phương thức sau đây: Chào bán cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; Chỉ chào bán cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.

Đối với chào bán chứng khoán ra công chúng, khoản 3 Điều 15 Luật Chứng khoán 2019 quy định về điều kiện chào bán bao gồm:

- Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ 30 tỉ đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;

- Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán; không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên 01 năm;

- Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông qua;

- Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác;

- Có công ty chứng khoán tư vấn hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng, trừ trường hợp tổ chức phát hành là công ty chứng khoán;

- Tổ chức phát hành không thuộc trường hợp đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án về một trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà chưa được xóa án tích;

- Tổ chức phát hành hoặc trái phiếu đăng ký chào bán phải được xếp hạng tín nhiệm bởi tổ chức xếp hạng tín nhiệm được Bộ Tài chính cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh trong các trường hợp sau:

+ Tổng giá trị trái phiếu theo mệnh giá huy động trong mỗi 12 tháng lớn hơn 500 tỉ đồng và lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu căn cứ trên báo cáo tài chính kỳ gần nhất trong các báo cáo sau: báo cáo tài chính năm gần nhất được kiểm toán hoặc báo cáo tài chính bán niên gần nhất được soát xét (trường hợp tổ chức phát hành là đối tượng phải công bố báo cáo tài chính bán niên được soát xét) bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận; hoặc

+ Tổng dư nợ trái phiếu theo mệnh giá tính đến thời điểm đăng ký chào bán lớn hơn 100% vốn chủ sở hữu căn cứ trên báo cáo tài chính kỳ gần nhất trong các báo cáo sau: báo cáo tài chính năm gần nhất được kiểm toán hoặc báo cáo tài chính bán niên gần nhất được soát xét (trường hợp tổ chức phát hành là đối tượng phải công bố báo cáo tài chính bán niên được soát xét) bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận.

- Tổ chức phát hành phải mở tài khoản phong tỏa nhận tiền mua trái phiếu của đợt chào bán;

- Tổ chức phát hành có cam kết và phải thực hiện niêm yết trái phiếu trên hệ thống giao dịch chứng khoán sau khi kết thúc đợt chào bán.

Điều kiện chào bán trái phiếu chuyển đổi ra công chúng áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 15 và điểm d khoản 3 Điều 15 Luật Chứng khoán 2019. Hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng được quy định tại Khoản 3 Điều 18 Luật chứng khoán 2019 bao gồm:

- Giấy đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng;

- Tài liệu quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này và văn bản cam kết đáp ứng quy định tại điểm e khoản 1 Điều 15 của Luật này;

- Quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông qua phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán trái phiếu ra công chúng và văn bản cam kết niêm yết trái phiếu trên hệ thống giao dịch chứng khoán;

- Cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác;

- Báo cáo kết quả xếp hạng tín nhiệm theo quy định tại điểm g khoản 3 Điều 15 của Luật này;

- Hợp đồng tư vấn hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng với công ty chứng khoán;

- Văn bản xác nhận của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài về việc mở tài khoản phong tỏa nhận tiền mua trái phiếu của đợt chào bán;

- Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có).

Hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng phải kèm theo quyết định của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông qua hồ sơ. Các thông tin trong hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng phải chính xác, trung thực, không gây hiểu nhầm và có đầy đủ những nội dung quan trọng ảnh hưởng đến việc quyết định của nhà đầu tư. Tổ chức phát hành khi nộp hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng đến Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thì đồng thời phải nộp hồ sơ đăng ký niêm yết hoặc đăng ký giao dịch chứng khoán, trừ trường hợp chào bán chứng chỉ quỹ mở.

Tổ chức phát hành phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực và đầy đủ của hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng. Tổ chức tư vấn phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành, tổ chức kiểm toán được chấp thuận, người ký báo cáo kiểm toán và bất kỳ tổ chức, cá nhân nào xác nhận hồ sơ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm vi liên quan đến hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng. Tổ chức phát hành hoàn thành việc chào bán trái phiếu ra công chúng phải tuân thủ nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định của Luật này.

Theo quy định tại Điều 28 Luật Chứng khoán 2019 thì Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quyết định hủy bỏ đợt chào bán trái phiếu ra công chúng trong các trường hợp sau đây:

- Hết thời hạn đình chỉ chào bán chứng khoánlà 60 ngày mà không khắc phục được những thiếu sót dẫn đến việc đình chỉ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng. (Lý do Bị đình chỉ chào bán chứng khoán ra công chúng bao gồm: Hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng có thông tin sai lệch, bỏ sót nội dung quan trọng có thể ảnh hưởng tới quyết định đầu tư và gây thiệt hại cho nhà đầu tư; Việc phân phối chứng khoán không thực hiện đúng quy định tại Điều 26 của Luật chứng khoán 2019).

- Đợt chào bán chứng khoán ra công chúng bị hủy bỏ theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của Trọng tài hoặc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày đợt chào bán chứng khoán ra công chúng bị hủy bỏ, tổ chức phát hành phải công bố việc hủy bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng theo phương thức quy định tại khoản 3 Điều 25 của Luật này và phải thu hồi chứng khoán đã phát hành, đồng thời hoàn trả tiền cho nhà đầu tư trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày đợt chào bán bị hủy bỏ. Hết thời hạn này, tổ chức phát hành phải bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư theo các điều khoản đã cam kết với nhà đầu tư.

Đối với chào bán chứng khoán riêng lẻ, bao gồm Chào bán chứng khoán riêng lẻ của tổ chức phát hành không phải là công ty đại chúng thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan và Chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.

Việc chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần không phải là công ty đại chúng được quy định tại Điều 128 Luật Doanh nghiệp 2020, đây là chào bán không thông qua phương tiện thông tin đại chúng cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và đáp ứng điều kiện về đối tượng mua trái phiếu riêng lẻ như sau:

- Nhà đầu tư chiến lược đối với trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ và trái phiếu kèm theo chứng quyền riêng lẻ;

- Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp đối với trái phiểu chuyển đổi riêng lẻ, trái phiếu kèm theo chứng quyền riêng lẻ và loại trái phiếu riêng lẻ khác.

Công ty cổ phần không phải là công ty đại chúng chào bán trái phiếu riêng lẻ phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

- Công ty đã thanh toán đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã chào bán và đã đến hạn thanh toán hoặc thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn trong 03 năm liên tiếp trước đợt chào bán trái phiếu (nếu có), trừ trường hợp chào bán trái phiếu cho các chủ nợ là tổ chức tài chính được lựa chọn;

- Có báo cáo tài chính của năm trước liền kề năm phát hành được kiểm toán;

- Bảo đảm điều kiện về tỉ lệ an toàn tài chính, tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định pháp luật;

- Điều kiện khác theo quy định của pháp luật có liên quan.

Chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán được quy định tại Điều 31 Luật Chứng khoán. Cụ thể:

Điều 31. Chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán

1. Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ, trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ, trái phiếu kèm chứng quyền riêng lẻ của công ty đại chúng bao gồm:

a) Có quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án phát hành và sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán; xác định rõ tiêu chí, số lượng nhà đầu tư;

b) Đối tượng tham gia đợt chào bán chỉ bao gồm nhà đầu tư chiến lược, nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;

c) Việc chuyển nhượng cổ phiếu chào bán riêng lẻ, trái phiếu chuyển đổi chào bán riêng lẻ, trái phiếu kèm chứng quyền chào bán riêng lẻ bị hạn chế tối thiểu là 03 năm đối với nhà đầu tư chiến lược và tối thiểu là 01 năm đối với nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán, trừ trường hợp chuyển nhượng giữa các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp hoặc thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của Trọng tài hoặc thừa kế theo quy định của pháp luật;

d) Các đợt chào bán cổ phiếu riêng lẻ, trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ, trái phiếu kèm chứng quyền riêng lẻ phải cách nhau ít nhất 06 tháng kể từ ngày kết thúc đợt chào bán gần nhất;

đ) Việc chào bán cổ phiếu, chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu, thực hiện chứng quyền phải đáp ứng quy định về tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật.

2. Điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty đại chúng không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm:

a) Có quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị thông qua phương án phát hành và sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán; xác định rõ tiêu chí, số lượng, nhà đầu tư;

b) Đối tượng tham gia đợt chào bán chỉ bao gồm nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;

c) Việc chuyển nhượng trái phiếu chào bán riêng lẻ chỉ được thực hiện giữa các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, trừ trường hợp thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của Trọng tài hoặc thừa kế theo quy định của pháp luật;

d) Thanh toán đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã chào bán hoặc thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn trong 03 năm liên tiếp trước đợt chào bán trái phiếu (nếu có), trừ trường hợp chào bán trái phiếu cho các chủ nợ là tổ chức tài chính được lựa chọn;

đ) Có báo cáo tài chính năm trước liền kề của năm phát hành được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận;

e) Đáp ứng các tỉ lệ an toàn tài chính, tỉ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định của pháp luật (nếu có).

3. Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán không phải là công ty đại chúng chào bán cổ phiếu riêng lẻ, trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ, trái phiếu kèm chứng quyền riêng lẻ phải đáp ứng quy định tại khoản 1 Điều này.

4. Điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán không phải là công ty đại chúng và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này bao gồm:

a) Có quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông qua phương án phát hành và sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán; xác định rõ tiêu chí, số lượng nhà đầu tư;

b) Đáp ứng quy định tại các điểm b, c, đ và e khoản 2 Điều này.

5. Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán không phải là công ty đại chúng chào bán cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu theo tỉ lệ sở hữu hiện có phải đáp ứng điều kiện quy định tại điểm a và điểm d khoản 1 Điều này.

6. Chính phủ quy định chi tiết việc chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán quy định tại Điều này và các trường hợp chào bán, phát hành chứng khoán riêng lẻ khác của công ty đại chúng.

Hồ sơ chào bán trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ được quy định tại Điều 12 Nghị định 153/2020/NĐ-CP. Ngoài ra Điều 18 Nghị định này quy định nguyên tắc công bố thông tin. Cụ thể, doanh nghiệp phát hành trái phiếu có trách nhiệm thực hiện công bố thông tin đầy đủ, kịp thời cho nhà đầu tư; các thông tin phải rõ ràng theo quy định của Nghị định này và hướng dẫn của Bộ Tài chính. Doanh nghiệp phát hành phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung và tính chính xác, trung thực của thông tin công bố.

Việc công bố thông tin trước khi chào bán trái phiếu không được chứa đựng nội dung có tính chất quảng cáo, mời chào và không thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, trừ trường hợp công bố thông tin theo quy định của pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.

Doanh nghiệp phát hành là công ty đại chúng thực hiện công bố thông tin theo quy định tại Nghị định này và quy định của pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.

TIẾN HƯNG

Phân biệt tội danh quy định tại Điều 359 và Điều 341 Bộ luật Hình sự

3.  Đối tượng nào không được mua doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ

(LSVN) - Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 23/2022/NĐ-CP về thành lập, sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu, chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ. Trong đó, quy định rõ đối tượng không được mua doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

Ảnh minh họa.

Theo đó, Điều 23 Nghị định quy định đối tượng không được mua doanh nghiệp. Cụ thể gồm:

- Người không có năng lực hành vi dân sự, người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người tại thời điểm đăng ký tham gia đấu giá không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.

- Tổ chức tài chính trung gian, cơ quan kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp và các cá nhân thuộc các tổ chức này trực tiếp giám định, định giá, kiểm toán doanh nghiệp; cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của người trực tiếp giám định, định giá, kiểm toán doanh nghiệp.

Tổ chức đấu giá doanh nghiệp và người làm việc trong tổ chức đấu giá doanh nghiệp thực hiện cuộc đấu giá; cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của đấu giá viên điều hành cuộc đấu giá.

- Người được cơ quan đại diện chủ sở hữu ủy quyền xử lý việc bán doanh nghiệp; người có quyền quyết định bán doanh nghiệp, người ký hợp đồng dịch vụ đấu giá doanh nghiệp;

- Cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của người quy định tại khoản 3 Điều này;

- Những người không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

- Nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật về đầu tư liên quan đến các điều kiện về tiếp cận thị trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và pháp luật về đất đai.

Việc xử lý tài chính, xác định và điều chỉnh giá trị doanh nghiệp, thuê tổ chức tư vấn để xác định giá trị doanh nghiệp, xác định giá khởi điểm và phương án bán toàn bộ doanh nghiệp được thực hiện theo quy định của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần.

Giá khởi điểm bán toàn bộ doanh nghiệp được xác định theo nguyên tắc không thấp hơn tổng giá trị phần vốn nhà nước đã được xác định theo quy định tại Khoản 1 Điều này.

Nghị định 23/2022/NĐ-CP này có hiệu lực từ ngày 01/6/2022.

TIẾN HƯNG

Điều kiện thành lập doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ

4. Thông báo rút kinh nghiệm vụ án 'Tranh chấp quyền sử dụng đất'

(LSVN) - Thông qua công tác kiểm sát xét xử giảm đốc thẩm đối với Bản án số 114/2019/DS-PT, ngày 10/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh VL giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn B. với bị đơn là bà Võ Thị X. đã có hiệu lực pháp luật, Viện Kiểm sát nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh thấy cần thông báo để rút kinh nghiệm.

Ảnh minh họa.

Nội dung vụ án:

Ngày 08/02/2007, ông Nguyễn Văn B. được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện BM cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) diện tích 5.712,6m2, thuộc thửa 294, tờ bản đồ số 2, ấp TT, xã TB, huyện BM, tỉnh VL (Thửa 294), nguồn gốc nhận thừa kế từ cụ Nguyễn Văn G. Trước đây, cụ G. cho bà Võ Thị X. và vợ chồng ông Bùi Văn D., bà Châu Thị U. ở nhờ một nền nhà 400m2 và mượn 02 liếp đất vườn khoảng 1.200m2 để canh tác trên Thửa 294.

Năm 2010, khi tiến hành đo đạc theo chương trình Vlap thì bà X., ông D., bà U. tranh chấp với ông B., yêu cầu ông B. phải tách quyền sử dụng đất cho bà X., ông D., bà U., ông B. yêu cầu Tòa án buộc bà Võ Thị X., ông Bùi Văn D., bà Châu Thị U. và các con của ông D., bà U. phải có trách nhiệm di dời nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng gắn liền với quyền sử dụng 1.600m2 đất thuộc một phần Thửa 294 để trả lại cho gia đình ông.

Bà X., ông D., bà U. không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông B. với lý do nguồn gốc đất tranh chấp là của cụ Nguyễn Văn Q. (ông nội của ông Nguyễn Văn B.) bán cho cụ Cao Thị K. (bà cố của ông Bùi Văn D.) từ năm 1940, khi cụ K. qua đời thì cụ Huỳnh Thị N. (bà nội của ông D.) tiếp tục canh tác, sau đó cụ Bùi Văn A. (cha ông D.) tiếp tục canh tác. Cụ Bùi Văn A. chết thì cụ Võ Thị X. (mẹ ông D.) và ông D. tiếp tục canh tác sử dụng cho đến nay.

Theo chương trình đo Vlap năm 2010, ông B. cho rằng đã có GCNQSDĐ nên đã chặt phá những cây gia đình bà X. trồng và trồng xen cây vào trên đất tranh chấp. Phần đất tranh chấp, cụ Bùi Văn A. có kê khai đăng ký sổ mục kê thửa 1564, tờ bản đồ số 2, diện tích 1.200m2 và thửa 1566 diện tích 400m2 tờ bản đồ số 2 tại ấp TT, xã TB, huyện TB (nay là huyện BM), tỉnh VL. Bà X. yêu cầu hủy một phần GCNQSDĐ Thửa 294 đã cấp cho ông B., công nhận quyền sử dụng thửa đất 1564 và thửa đất 1566 cho ông D.

UBND huyện BM trình bày: Thửa 294 hình thành năm 1991 gồm 03 thửa 1564, 1655, 1656. Ngày 31/3/1991, cụ Nguyễn Văn G. xin cấp quyền sử dụng Thửa 294 và được Hội đồng đăng ký đất của xã xét cấp. Ngày 01/10/1996, UBND huyện BM cấp GCNQSDĐ Thửa 294, diện tích 6.300m2 cho cụ G. Năm 2005, cụ G. để lại thừa kế cho ông B. Năm 2007, ông B. được cấp GCNQSDĐ Thửa 294 diện tích 5.712,6m2.

Quá trình giải quyết vụ án

Tại Bản án số 40/2018/DS-ST, ngày 08/11/2018, TAND huyện BM, tỉnh VL (Bản án sơ thẩm), đã quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn B. buộc bà X., ông D., bà U. và các con của ông D. và bà U. phải có trách nhiệm di dời nhà cửa, vật kiến trúc, cây trồng gắn liền với quyền sử dụng đất chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2; chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2; chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2; chiết thửa 194-4 diện tích 472,4m2.

Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Bùi Văn D.: Hủy một phần GCNQSDĐ thửa 294, diện tích 5,712m2, do ông B đứng tên quyền sử dụng đất. Công nhận cho ông D. các phần đất thuộc: Chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2; chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2, chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2; chiết thửa 194-4 diện tích 472,4m2. Công nhận phần cây trồng cho ông Bùi Văn D. được quyền sử dụng nhưng hoàn lại giá trị cây trồng cho ông Nguyễn Văn B. là 9.460.000 đồng.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác. Ngày 20/11/2018, ông Nguyễn Văn B. kháng cáo Bản án sơ thẩm.

Tại Bản án số 114/2019/DS-PT, ngày 10/6/2019 của TAND tỉnh VL (Bản án phúc thẩm), đã quyết định:

Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn B.: Sửa Bản án sơ thẩm Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B.

Công nhận ông B được quyền sử dụng phần đất chiết thửa 194-3 diện tích 755,8m2, chiết thửa 294-4 diện tích 472,4m2.

Buộc bà X., ông D., bà U. trả lại cho ông B. các phần đất thuộc chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2, chiết thửa 294-4 diện tích 472,4m2 (kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất).

Ông B. được quyền sở hữu các cây trồng gắn liền phần chiết thửa 294-3 diện tích 755,8m2. Buộc ông B có trách nhiệm hoàn trả giá trị cây trồng cho bà X., ông D., bà U. số tiền 7.175.000 đồng.

Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Bùi Văn D.

Công nhận cho bà X., ông D., bà U. được quyền sử dụng phần đất thuộc chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2 (trong đó có 105,2m2 đất ở nông thôn và 45,2m2 đất trồng cây lâu năm) và chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2 (kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất).

Buộc bà X., ông D. và bà U. có trách nhiệm hoàn trả lại giá trị phần đất thuộc chiết thửa 294-1 diện tích 150,4m2 và chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2 cho ông B. bằng số tiền 34.324.000 đồng.

Bà X., ông D., bà U. được quyền sở hữu các cây trồng gắn liền phần đất chiết thửa 294-2 diện tích 119,2m2. Buộc bà X., ông D., bà U. có trách nhiệm hoàn trả giá trị cây trồng cho ông B. số tiền 2.325.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của ông B. đồng ý để ngôi mộ của ông Bùi Văn A. được tồn tại trên phần đất chiết thửa 294-3. Ông B. và các thành viên trong gia đình ông B phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để con cháu ông A. đi vào chăm sóc, viếng mộ ông A. theo phong tục tập quán.

Ngoài ra, Bản án phúc thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác. Ông Bùi Văn D. có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 172/2021/DS-GĐT ngày 14/5/2021 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã chấp nhận toàn Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 64/QĐKNGĐT-VKS-DS, ngày 01/02/2021 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc hủy Bản án phúc thẩm và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Vấn đề cần rút kinh nghiệm

Ông Nguyễn Văn B. cho rằng phần đất tranh chấp do cụ Nguyễn Văn G. (cha ông B.) đã cho bà X., ông D., bà U. ở nhờ nhưng không xuất trình được chứng cứ chứng minh. Bà X., ông D., bà U. xác định nguồn gốc đất do gia tộc nhận chuyển nhượng của cụ Nguyễn Văn Q. từ năm 1936 có xác nhận của Hương chức làng TQ. Đến năm 1980 cụ Bùi Văn A. là cha ông D. đã kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất. Việc sử dụng đất của gia đình bà X. là liên tục, ổn định, lâu dài, bảo đảm về việc xác lập quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 247 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Theo chứng thực lưu trữ địa chính số 379/CTLT ngày 17/3/2015 của Trung tâm công nghệ thông tin tỉnh VL và Công văn số 570/UBND-NC ngày 14/7/2017 của UBND huyện BM xác định năm 1980 cụ Bùi Văn A. (cha ông D.) có đăng ký thửa 1564 diện tích 1.200m2 và thửa đất 1566 diện tích 400m2. Còn cụ G. (cha ông B) đăng ký thửa 1565 diện tích 5.400m2. Tuy nhiên, đến năm 1991 khi thực hiện đo đạc chương trình đất thì cụ G. đăng ký kê khai tổng diện tích là 6.300m2 gồm cả 3 thửa 1564, 1565, 1566 nhập thành Thửa 264 và được cấp GCNQSĐ ngày 01/10/1996. GCNQSDĐ cấp cho ông B. không trùng khớp với hiện trạng sử dụng đất của các bên với lý do năm 1991 Thửa 264 có diện tích 6.300m2 nhưng đến năm 2005 giảm xuống còn 5.712,6m2 do sạt lở cặp rạch thông lưu và làm đường giao thông nông thôn.

Tại Quyết định số 65/QĐ-UBND ngày 17/01/2006 của UBND huyện BM đã hủy bỏ GCNQSDĐ cấp ngày 01/10/1996 do mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó ông B. làm thủ tục thừa kế và được cấp GCNQSDĐ ngày 08/02/2007. UBND cấp GCNQSDĐ cho cụ G. ngày 01/10/1996 (trong khi cụ G. đã chết ngày 28/6/1993) đối với toàn bộ thửa đất số 264 là không đúng đối tượng và thực tế quá trình sử dụng đất, không đúng quy định của pháp luật về đất đai.

Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B. và hủy một phần GCNQSDĐ đối với phần đất ông D., bà U., bà X. đang sử dụng tại chiết thửa 294-1; 294-2; 294-3; 294-4 thuộc một phần Thửa 294 là có căn cứ đúng quy định của pháp luật. Bản án phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông B., buộc bà X., ông D., bà U. trả lại cho ông B. phần đất nêu trên là không có căn cứ, không đúng quy định pháp luật.

PV

Chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm về phát hành, bán trái phiếu trái quy định

 

SÁNG

1. Chồng có được nghỉ theo chế độ thai sản khi vợ sinh con?

(LSVN) - Vợ tôi sắp sinh, tôi đang đi làm, có đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ. Vậy theo quy định của pháp luật, tôi có được hưởng các chế độ liên quan đến thai sản và có được nghỉ chăm sóc vợ hay không? Bạn đọc N.L. hỏi.

Ảnh minh họa.

Theo quy định tại Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2014, người lao động tham gia BHXH bắt buộc được hưởng chế độ thai sản nếu thuộc một trong các trường hợp: Lao động nữ mang thai; Lao động nữ sinh con; Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ; Người lao động nhận con nuôi dưới 6 tháng tuổi; Lao động nữ đặt vòng tránh thai, triệt sản; Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.

Ngoài ra người lao động cũng cần đáp ứng thêm điều kiện về thời gian tham gia để được hưởng chế độ thai sản:

- Lao động nữ sinh con, nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi hay người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ phải đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong 12 tháng trước khi sinh hoặc nhận nuôi con nuôi.

- Lao động nữ sinh con đã đóng BHXH từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của bác sĩ thì phải đóng BHXH từ đủ 3 tháng trở lên trong 12 tháng trước khi sinh.

Người lao động đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên mà chấm dứt hợp đồng lao động hoặc thôi việc trước khi sinh hoặc nhận con nuôi dưới 6 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ này.

Về thời gian hưởng chế độ khi vợ sinh con, lao động nam đang đóng BHXH khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như sau:

- 5 ngày làm việc: Trường hợp thông thường.

- 7 ngày làm việc: Vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi.

- 10 ngày làm việc: Vợ sinh đôi; từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc.

- 14 ngày làm việc: Vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật.

Thời gian nghỉ việc này không tính ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, ngày nghỉ hàng tuần.

Như vậy, căn cứ theo quy định trên, lao động nam cũng được hưởng các chế độ thai sản và thời gian nghỉ chế độ căn cứ theo quy định trên.

HỒNG HẠNH

Người lao động được nghỉ thế nào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương và 30/4 - 01/5?

2. 

Hạn chế tối đa việc giao cho bộ, ngành hướng dẫn luật 

(LSVN) - Theo Báo cáo Dòng chảy pháp luật kinh doanh 2021 của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thì từ ngày 01/01/2016 đến ngày 20/7/2020, số lượng thông tư được ban hành chiếm hơn 68% tổng số văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Như vậy, trung bình mỗi luật hiện có 25,8 thông tư và 1,9 thông tư liên tịch hướng dẫn, tương đương 28 thông tư/luật. 

Ảnh minh họa.

Chỉ nhìn vào số liệu thống kê này, chúng ta thấy rất rõ số lượng thông tư hướng dẫn luật quá lớn. Đặc biệt là thông tư thuộc lại do nhiều bộ, ngành ban hành, nhiều khi cùng một vấn đề mỗi cơ quan hướng dẫn một kiểu gây khó cho người dân, doanh nghiệp có thể áp dụng triển khai thuận lợi, chính xác. Thậm chí, các cơ quan quản lý, thực thi pháp luật cũng khó khăn trong việc áp dụng, vận dụng vì đôi khi các văn bản chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập, khác biệt nhau. 

Bên cạnh đó, việc một số luật chỉ quy định khung, ống hoặc quá 'mở' nên có nguy cơ bị các văn bản hướng dẫn dưới luật vô hiệu hóa! Bởi nhiều quy định để cho bộ, ngành hướng dẫn làm cho tinh thần của văn bản luật của cơ quan làm luật là Quốc hội, không được bộ, ngành liên quan lĩnh hội đầy đủ, thậm chí là sai, trái tinh thần của luật. 

Mặt khác, việc nhiều luật phụ thuộc vào hướng dẫn của thông tư làm giảm hiệu lực, hiệu quả của luật, chẳng hạn có đến hơn 70 thông tư hướng dẫn Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Đúng ra luật chỉ nên giao nghị định hướng dẫn nằm hạn chế chồng chéo, bất cập; đảm bảo khách quan, minh bạch, nhất là hạn chế tình trạng lợi ích cục bộ của bộ, ngành. Bởi ở tầm nghị định trước khi ban hành sẽ có cơ quan thẩm định độc lập là Bộ Tư pháp và đưa ra thảo luận ở tập thể Chính phủ, còn thông tư chỉ giao cho cơ quan pháp chế của bộ, ngành đó thẩm định trước khi trình thủ trưởng bộ, ngành ban hành nên khó mà khách quan được. 

Ngoài ra, việc sửa đổi các thông tư hướng dẫn cũng khá tùy tiện không được rà soát, tổng kết, đánh giá kỹ lưỡng, toàn diện nên một số nội dung sửa đổi, bổ sung chưa hợp lý, chưa triệt để, toàn diện. Nhiều văn bản hướng dẫn sửa đổi, bổ sung theo kiểu 'vướng đâu, sửa đấy', làm luật theo kiểu 'đẽo cày giữa đường' nên càng sửa, lại càng vướng vì liên quan đến các nội dung, quy định khác.

Thiết nghĩ, để giải quyết triệt để tình trạng này cần hạn chế tối đa việc giao cho cơ quan chức năng hướng dẫn luật, nhất là các bộ, ngành. Theo đó, các nội dung, quy định phải được thể hiện rõ, cụ thể ngay trong văn bản luật, trường hợp cần hướng dẫn thì chỉ giao đến Chính phủ hướng dẫn ở tầm nghị định.

Cùng với đó, nên giao cho một cơ quan làm đầu mối hướng dẫn luật, bỏ việc hướng dẫn liên tịch hoặc một luật nhưng giao cho nhiều cơ quan hướng dẫn như hiện nay. Bởi như vậy không chỉ dẫn đến chồng chéo, bất cập mà còn có thể dẫn đến các điều kiện bất hợp lý, vì lợi ích bộ, ngành được cài, cắm vào thông tư để gây khó, ảnh hưởng tiêu cực đến doanh nghiệp, người dân./.

Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Quy định tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động

3. Tội ‘Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi’ trong Bộ luật Hình sự 2015

(LSVN) - Để bảo vệ các quyền trẻ em theo nội dung của Công ước, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý khác nhau, trong đó có các quy định của pháp luật hình sự quy định về các tội phạm xâm hại tình dục đối với trẻ em trong Bộ luật Hình sự của nước ta. Trong bài viết này, tác giả đã nghiên cứu và đưa ra các đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” trên thực tế.

Ảnh minh họa.

1. Quy định của pháp luật về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”

Trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” được quy định trong chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Điều 146 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi như sau:

“1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, …”. Dễ nhận thấy, so sánh với Bộ luật hình sự năm 1999, cụm từ “trẻ em” không còn được sử dụng trong BLHS năm 2015, thay vào đó, nhà làm luật đã chi tiết hóa độ tuổi của nhóm đối tượng này, đó là “người dưới 16 tuổi”.

Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi bao gồm: Khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm như sau:

Về chủ thể: Chủ thể của tội phạm ngoài việc phải có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) thì điều kiện thứ hai không thể thiếu được đó là phải đạt đến độ tuổi chịu TNHS. Độ tuổi phải chịu TNHS về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” là quy định đặc biệt, bên ngoài giới hạn quy định độ tuổi chịu TNHS nói chung tại Điều 12 BLHS. Điều 146 BLHS quy định trực tiếp độ tuổi của người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Theo đó, độ tuổi là dấu hiệu đặc biệt của chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.

Mặc dù cách dùng từ khác nhau, BLHS 1999 quy định chủ thể tội phạm là “người đã thành niên” thì BLHS năm 2015 quy định cụ thể hơn là “người nào từ đủ 18 tuổi trở lên” nhưng xét cho cùng đều là một nghĩa, vì người đã thành niên theo quy định của pháp luật Việt Nam chính là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Vì vậy, chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là người đủ 18 tuổi trở lên và phải có năng lực TNHS.

Về khách thể: BLHS năm 2015 xếp tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi thuộc Chương XIV – Các tội xâm phạm tính mạng. sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Do đó, khách thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm và quyền được phát triển bình thường về tình dục của người dưới 16 tuổi.

Việc BLHS năm 2015 quy định chi tiết độ tuổi của nạn nhân trong tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không những giải quyết được những vướng mắc về khái niệm “trẻ em" trong BLHS năm 1999 trước đây mà còn đảm bảo tính thống nhất về chính sách hình sự đối với tội dâm ô đối với trẻ em từ trước đến nay, đảm bảo tính lâu dài ổn định trong quy định của BLHS. Ngoài ra, việc nhà làm luật lựa chọn độ tuổi 16 là hoàn toàn phù hợp bởi ở độ tuổi này tâm sinh lý của trẻ em còn chưa phát triển đầy đủ, việc bị xâm hại tình dục sẽ gây ra những hậu quả xấu đối với trẻ em cả về thể xác lẫn tinh thần. 

Về mặt khách quan: Đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.

Giống như quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 cũng không mô tả hành vi của tội phạm mà nhắc lại tên tội danh trong điều luật, đó là “dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”. Đây là sự kế thừa kỹ thuật lập pháp của BLHS năm 1999 về mô tả hành vi của tội phạm đồng thời thể hiện văn hóa pháp lý của nhà nước ta, đó là tránh mô tả các từ ngữ nhạy cảm trong BLHS.

Về mặt chủ quan: Lỗi của người phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” là lỗi cố ý. Mục đích của người phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” là nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục của người phạm tội hoặc kích thích, khơi gợi nhu cầu tình dục của người dưới 16 tuổi.

Lỗi cố ý của người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi thể hiện ở việc người phạm tội nhận thức rõ hành vi đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, là hành vi xâm hại tình dục không phải là hành vi giao cấu hay hành vi quan hệ tình dục khác.

Tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” trong BLHS năm 2015 có 03 khung hình phạt với mức hình phạt khá nghiêm khắc. Khung hình phạt cơ bản (khoản 1) có mức hình phạt là “phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Khung hình phạt tăng nặng tại khoản 2, khoản 3 có mức hình phạt tối thiểu là 03 năm tù và 07 năm tù. Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn phải chịu thêm hình phạt bổ sung bắt buộc là “cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

Ngoài ra, Điều 146 BLHS năm 2015 không quy định các tình tiết định khung không rõ ràng như “gây hậu quả nghiêm trọng” hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” như trong BLHS năm 1999 mà thay vào đó đã cụ thể hóa các tình tiết này thành “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%” (điểm đ khoản 2) và “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể trên 61%” (điểm a khoản 3), “làm nạn nhân tự sát” (điểm b khoản 3).

Ngoài ra, “phạm tội 02 lần trở lên”, “đối với 02 người trở lên” cũng là những tình tiết thay thế cho tình tiết “phạm tội nhiều lần”, “phạm tội đối với nhiều trẻ em”. Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 cũng bổ sung thêm tình tiết “phạm tội có tổ chức” (điểm a khoản 2). So với quy định của BLHS năm 1999 thì đây là tình tiết định khung mới được bổ sung. 

2. Một số đề xuất, kiến nghị

Có thể thấy rằng, việc bổ sung dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng mới tại Điều 146 BLHS năm 2015 cho thấy nhà làm luật đã nhận thức đầy đủ hơn về tính nguy hiểm của tội phạm, qua đó góp phần làm cho hoạt động đấu tranh chống tội phạm này đạt hiệu quả cao trong thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu tội tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” trong BLHS năm 2015 cho thấy quy định về tội phạm này cũng còn những hạn chế cần được tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện. Cụ thể:

Thứ nhất, đối với tình tiết định khung tăng nặng “Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thế từ 31% đến 60%”. Nhà làm luật nên quy định trường hợp dâm ô mà gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 21% đến 60% thì người phạm tội bị áp dụng khoản 2 Điều 146 BLHS mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay.

Thứ hai, đối với tình tiết giảm nhẹ TNHS “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” (điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS). Việc chia điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS thành hai tình tiết giảm nhẹ là “người phạm tội thành khẩn khai báo” và “người phạm tội ăn năn hối cải” để áp dụng xử phạt bị cáo ở khung hình phạt nhẹ hơn cũng là hợp lý. Vì suy cho cùng việc xử lý các bị cáo trong các vụ án này cũng rất dễ dàng và quá trình điều tra giải quyết được nhanh chóng thuận lợi hơn so với các bị cáo quanh co chối tội, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.

Thứ ba, sửa đổi Điều 146 BLHS năm 2015 theo hướng người phạm tội “biết rõ là trẻ em dưới 16 tuổi mà vẫn thực hiện hành vi dâm ô nhưng không nhằm mục đích giao cấu hoặc thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác”. Do điều luật không quy định rõ ý thức của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội phải biết rõ nạn nhân là trẻ em dưới 16 tuổi nên trong thực tế khi xét xử đối với tội này nhiều người phạm tội cho rằng trước khi phạm tội thì họ ý thức rằng người bị hại đã trên 16 tuổi (do sự phát triển đầy đủ về thể hình và có trường hợp khi quen biết nhau người bị hại đã nói dối họ về độ tuổi là trên 16 ...) và khi người bị hại đồng thuận cho phép thì họ mới thực hiện hành vi. Vì vậy họ cho rằng mình không vi phạm pháp luật vì không thể biết rõ chính xác được độ tuổi của người bị hại.

Để khắc phục những bất cập này và để cho việc xử lý người phạm tội một cách thuyết phục, cho họ thấy được lỗi lầm của mình thì cần thiết phải sửa đổi điều luật theo hướng quy định rõ trong cấu thành tội phạm là người phạm tội trước khi thực hiện hành vi dâm ô với người bị hại thì phải biết rõ người bị hại là trẻ em trong độ tuổi dưới 16 tuổi.

Thứ tư, nên xem xét việc giảm độ tuổi phải chịu TNHS về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo hướng “người nào đủ 18 tuổi trở lên” thành “người nào đã 16 tuổi trở lên”. Việc quy định tuổi chịu TNHS sớm hơn không vi phạm pháp luật quốc tế cũng như không làm giảm đi tính chất nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.

Do điều kiện sống của trẻ em ngày càng tốt hơn, sự phát triển về thể chất, năng lực nhận thức, năng lực hành vi của trẻ em vượt bậc hơn so với các thế hệ trước đây. Do vậy. việc giảm độ tuổi chịu TNHS về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là cần thiết.

NGUYỄN PHI HÙNG

Toà án Quân sự Quân khu 4

Một số vấn đề về chủ thể của tội phạm tình dục trong pháp luật hình sự hiện nay

4. Các trường hợp từ chối cho hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định RCEP

(LSVN) - Bộ Công Thương vừa ban hành Thông tư 05/2022/TT-BCT ngày 18/02/2022 quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (Hiệp định RCEP). Trong đó quy định rõ về các trường hợp từ chối cho hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định RCEP.

Ảnh minh họa.

Cụ thể, Điều 27 Thông tư quy định rõ cơ quan hải quan của nước thành viên nhập khẩu từ chối cho hưởng ưu đãi thuế quan đối với một trong hai trường hợp sau:

- Hàng hóa không đáp ứng quy định tại Thông tư này.

- Nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất hàng hóa không chứng minh được hàng hóa đáp ứng quy định tại Thông tư này để được hưởng ưu đãi thuế quan.

Trường hợp cơ quan hải quan của nước thành viên nhập khẩu từ chối cho hưởng ưu đãi thuế quan, cơ quan hải quan phải cung cấp cho nhà nhập khẩu quyết định bằng văn bản và nêu rõ lý do từ chối.

Cơ quan hải quan của nước thành viên nhập khẩu từ chối cho hưởng ưu đãi thuế quan trong các trường hợp sau đây:

- Cơ quan hải quan không nhận được đủ thông tin để xác định hàng hóa có xuất xứ.

- Nhà xuất khẩu, nhà sản xuất hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước thành viên xuất khẩu không phản hồi bằng văn bản đề nghị kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa theo quy định tại Điều 24 Thông tư này.

- Đề nghị kiểm tra, xác minh tại cơ sở sản xuất theo quy định tại Điều 24 Thông tư này bị từ chối.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 04/4/2022.

Cơ quan, tổ chức cấp C/O xem xét cấp C/O mẫu RCEP cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trước ngày Thông tư này có hiệu lực để được hưởng ưu đãi thuế quan theo quy định của Hiệp định RCEP và của nước thành viên nhập khẩu.

Cơ quan hải quan nước thành viên nhập khẩu chấp nhận chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa được phát hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2022. Thủ tục kiểm tra chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa để cho hưởng ưu đãi thuế quan được thực hiện theo quy định của Hiệp định RCEP, các nội dung quy định tại Chương III Thông tư này và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

TIẾN HƯNG

Cây nêu ngày Tết trong văn hóa dân gian Việt Nam

5. Đề xuất mới về Chứng chỉ bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh phóng viên, biên tập viên

(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số quy định về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp biên tập viên, phóng viên, biên dịch viên, đạo diễn truyền hình, âm thanh viên, phát thanh viên, kỹ thuật dựng phim, quay phim thuộc chuyên ngành Thông tin và Truyền thông của Bộ Thông tin và Truyền thông.

Theo đó, đối với tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng, dự thảo đề xuất: Biên tập viên hạng I và II đều có yêu cầu chung là có chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành biên tập viên hoặc có chứng chỉ hành nghề biên tập viên (đối với biên tập viên lĩnh vực xuất bản).

Theo quy định hiện nay thì cần có Chứng chỉ bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh biên tập viên hạng I và hạng II riêng biệt.

Tương tự, đối với phóng viên, dự thảo đề xuất: Phóng viên hạng I và II đều có yêu cầu chung là có chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành phóng viên.

Theo quy định hiện nay thì cần có Chứng chỉ bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh phóng viên hạng I và hạng II riêng biệt.

Bộ Thông tin và Truyền thông đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo này.

PHƯƠNG HOA

Đề xuất quy định mới trong thi, xét thăng hạng phóng viên, biên tập viên

6. 

 

 

Admin