(LSVN) - Trong những năm qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) ở Việt Nam đã và đang khẳng định vai trò là một bộ phận không thể tách rời của quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật. PBGDPL được xem là cầu nối để đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước, hướng tới mục tiêu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách về tiếp cận pháp lý giữa đồng bằng, thành thị với những khu vực có điều kiện khó khăn, trong đó nổi bật là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Bài viết tập trung làm rõ những tiền đề cơ bản nhằm thúc đẩy hiệu quả công tác PBGDPL cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay.
Ảnh minh họa.
Đặt vấn đề
Những năm qua, cùng với sự phát triển không ngừng của đất nước, công tác PBGDPL đã có nhiều bước tiến vượt bậc, có những chuyển biến cơ bản cả về chất lượng và hiệu quả đạt được, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để kinh tế - xã hội các vùng miền được phát triển đồng đều, rút ngắn khoảng cách giữa miền núi với miền xuôi, giữa thành thị và nông thôn, giúp cho người dân có điều kiện tiếp cận thông tin, nâng cao dân trí dân sinh, nhất là thông tin pháp luật, trong điều kiện Nhà nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay thì công tác PBGDPL cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (nhất là tại các xã, bản đặc biệt khó khăn và biên giới) được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân, đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần bảo đảm an ninh trật tự ngay từ cơ sở.
Với đặc điểm điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn (đa số người dân có đời sống vất vả, nghèo nàn so với mặt bằng chung trong cả nước, địa hình phức tạp khiến việc đi lại gặp nhiều bất tiện, trình độ dân trí thấp…), khả năng tiếp cận thông tin pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã, bản đặc biệt khó khăn và biên giới còn hạn chế. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch cũng lợi dụng trình độ dân trí thấp của người dân khu vực này để tuyên truyền chính sách thù địch, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi vậy, việc ưu tiên PBGDPL cho đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã, bản đặc biệt khó khăn là hết sức cần thiết. Để thực hiện nhiệm vụ cấp thiết này cần bảo đảm nguồn lực ổn định tham gia công tác PBGDPL vì nhiệm vụ này cần được thực hiện một số giải pháp mang tính căn cơ, lâu dài nhằm bảo đảm hiệu quả công tác PBGDPL được bền vững trong thời gian tới.
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền địa phương về vai trò quan trọng và ý nghĩa của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Thực tế cho thấy, khi các cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo triển khai PBGDPL tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (ĐBDTTS&MN) thì công tác này sẽ được tổ chức một cách thường xuyên, có kế hoạch, đồng bộ, thống nhất, từ việc xác định nội dung, hình thức PBGDPL, phân công trách nhiệm thực hiện cho đến việc xây dựng, bố trí, phát triển nguồn nhân lực, đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác PBGDPL tại vùng ĐBDTTS&MN(1). Do vậy, việc nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền địa phương là giải pháp có ý nghĩa quan trọng, mang tính tiền đề để triển khai các giải pháp tiếp theo. Mỗi cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở từng địa phương phải nỗ lực, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, có sự quan tâm và chỉ đạo tích cực, sâu sát hơn từ việc xây dựng kế hoạch, chương trình hành động PBGDPL trong từng giai đoạn của ngành mình, cấp mình cho đến những giải pháp cụ thể để thực hiện có hiệu quả, tránh hiện tượng nêu to khẩu hiệu rồi phó mặc cho cán bộ chuyên môn hoặc các ngành đoàn thể tự triển khai.
Do đó, tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền địa phương về vai trò quan trọng và ý nghĩa của công tác PBGDPL tại vùng ĐBDTTS&MN trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN thời kỳ mới nói chung, bảo đảm quyền con người, quyền công dân cho những đối tượng đặc thù, đối tượng yếu thế xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; coi công tác PBGDPL cho ĐBDTTS&MN là một bộ phận không thể tách rời của công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho người dân, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, góp phần đưa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống trở thành ý thức, hành động của từng cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Để tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị về vị trí, vai trò của hoạt động PBGDPL cho người dân nói chung và tại vùng ĐBDTTS&MN nói riêng, cần quán triệt toàn diện và sâu sắc hơn nữa Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL. Đồng thời quán triệt sâu rộng về chủ trương, chính sách, kế hoạch của công tác PBGDPL trong Luật PBGDPL năm 2012 để tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức từ đó dẫn đến sự chuyển biến tích cực trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác này, trong đó phải nhấn mạnh vai trò tiên phong, gương mẫu của người đứng đầu.
Việc nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền địa phương về vai trò quan trọng và ý nghĩa của công tác PBGDPL tại vùng ĐBDTTS&MN còn giúp cho hoạt động theo dõi, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc triển khai thực hiện các văn bản của Trung ương, của tỉnh về công tác PBGDPL được thực hiện hiệu quả, từ đó kịp thời đôn đốc, chỉ đạo xử lý những vướng mắc phát sinh trong quá trình tuyên truyền, PBGDPL cho các nhóm đối tượng người dân tại vùng ĐBDTTS&MN.
Phát huy vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nguồn lực cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Công tác PBGDPL là một nội dung của quản lý Nhà nước, được thực hiện theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước mà không chịu tác động bởi thị trường. Tuy nhiên, để hoạt động này có hiệu quả trong thực tiễn, đặc biệt trong xu hướng xã hội hóa các dịch vụ công như hiện nay, công tác PBGDPL đòi hỏi sự hỗ trợ rất lớn từ các hoạt động có tính chất nghề nghiệp của các luật gia, Luật sư, những người am hiểu về pháp luật và cung cấp các dịch vụ thông tin, tư vấn pháp luật (gọi chung là tư vấn pháp luật). Trong bối cảnh Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các hoạt động này theo đó chịu sự chi phối của các quy luật về cạnh tranh.
Một hệ quả của sự cạnh tranh trên thị trường là việc các nguồn lực được rút ra khỏi những ngành, lĩnh vực và địa điểm đang hoạt động kém hiệu quả, di chuyển đến những nơi có lợi thế phát triển và thu được hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận cao hơn(2), từ đó cân bằng thị trường cung - cầu và tối đa hóa lợi ích xã hội. Tuy nhiên, điều này vô tình tạo ra những vấn đề tự thân thị trường không thể giải quyết và ngày càng trở nên trầm trọng, hay còn gọi là những “khuyết tật” của thị trường. Vì vậy, trong lĩnh vực PBGDPL, các “khuyết tật” thị trường có xu hướng đẩy lực lượng lao động đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tư vấn pháp luật như Luật sư, tư vấn viên pháp luật, học viên, sinh viên được đào tạo chuyên ngành luật… ra khỏi những khu vực ít cơ hội nghề nghiệp như vùng ĐBDTTS&MN để chảy về những khu vực có cơ hội nghề nghiệp cao hơn là đồng bằng và các đô thị lớn. Bên cạnh đó, với việc điều kiện kinh tế không đồng đều, dân cư thưa thớt, ngôn ngữ, văn hóa có nhiều sự khác biệt giữa các dân tộc, người dân chưa có ý thức tìm hiểu quy định của pháp luật cũng
như nhận thức về việc trả phí cho dịch vụ tư vấn pháp luật còn nhiều e ngại… khiến cho thị trường cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật tại vùng ĐBDTTS&MN trở nên kém hấp dẫn, không thu hút được các công ty luật, văn phòng Luật sư, trung tâm tư vấn và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực pháp lý khác đầu tư trên các địa bàn này(3).
Việc khắc phục những “khuyết tật” thị trường nói chung và trong hoạt động tư vấn pháp luật nói riêng buộc phải có sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế Nhà nước; bên cạnh việc gia tăng tối đa lợi ích xã hội, Nhà nước còn có trách nhiệm trong việc hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của toàn thể người dân, đặc biệt là những đối tượng đặc thù như người dân tại vùng ĐBDTTS&MN.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”. Để thực hiện được chiến lược đó, cần nhận thức rõ những vấn đề:
Thứ nhất, công bằng xã hội trước hết là sự bình đẳng về cơ hội phát triển giữa mọi người dân, trên mọi vùng miền của đất nước. Cần nhận thức rõ những khu vực chịu thiệt thòi như vùng ĐBDTTS&MN có sự chênh lệch rất lớn về trình độ phát triển, điều kiện kinh tế - xã hội, cơ hội việc làm và trình độ dân trí với những khu vực đồng bằng và đô thị lớn.
Thứ hai, cần trả lời câu hỏi Nhà nước phải làm gì và làm như thế nào để thị trường cung - cầu dịch vụ tư vấn pháp lý phục vụ người nghèo, người dân tộc thiểu số hiệu quả; hỗ trợ các vùng chậm phát triển, ngăn chặn tình trạng chất xám chảy khỏi vùng ĐBDTTS&MN và thu hút lực lượng lao động chất lượng cao trong công tác PBGDPL quay trở lại phục vụ, phát triển quê hương.
Để giải quyết những vấn đề đó, Nhà nước cần thể hiện rõ và phát huy vai trò điều tiết nguồn lực tư vấn pháp luật thông qua các nhiệm vụ:
(i) Xây dựng các chính sách, quy định pháp luật khuyến khích, hỗ trợ lực lượng lao động chất lượng cao, các doanh nghiệp trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý đầu tư và phát triển bền vững tại khu vực ĐBDTTS&MN.
(ii) Xây dựng những chương trình đưa sinh viên được đào tạo chuyên ngành luật quay trở về quê hương thực hiện hoạt động tư vấn pháp luật cho người dân và tạo điều kiện khuyến khích sinh viên lập nghiệp tại địa phương.
(iii) Đầu tư, xây dựng, cung cấp kết cấu hạ tầng (như giao thông vận tải; hệ thống điện - đường - trường - trạm; hệ thống bưu chính - viễn thông; internet; tài chính…) và các dịch vụ, hàng hóa công cộng (như các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục - đào tạo, bảo vệ môi trường,…) tại vùng ĐBDTTS&MN, nâng cao chất lượng đời sống sinh hoạt và làm việc của người dân tại khu vực này.
(iv) Kiến tạo, bảo đảm môi trường hoạt động ổn định, tối giản hóa thủ tục hành chính, các khoản thuế, phí áp lên những cá nhân, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật tại vùng ĐBDTTS&MN.
Thiếu đi bất cứ nhiệm vụ nào trong số đó đều không thể giải quyết những “khuyết tật” mà thị trường gây ra đối với hoạt động tư vấn pháp luật. Do vậy, Nhà nước cần phát huy vai trò điều tiết của mình trong việc thực hiện một cách đầy đủ, đồng bộ, quyết liệt những nhiệm vụ trên nhằm thu hẹp khoảng cách tiếp cận thông tin và dịch vụ pháp lý. Từ đó, góp phần quan trọng trong cải thiện hiệu quả của công tác PBGDPL cho người dân vùng ĐBDTTS&MN.
Triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đi liền với đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ dân trí tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Điều kiện về kinh tế - xã hội trên thực tế có tác động rất lớn đến tính bền vững của công tác PBGDPL tại vùng ĐBDTTS&MN. Điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi sẽ thúc đẩy việc đầu tư các điều kiện bảo đảm để triển khai công tác PBGDPL được diễn ra thuận lợi, đạt chất lượng, hiệu quả thực chất, bền vững. Ngược lại, khi điều kiện kinh tế - xã hội kém phát triển hoặc phát triển thiếu bền vững, không ổn định sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả của công tác PBGDPL tại vùng ĐBDTTS&MN(4). Việc cải thiện điều kiện kinh tế - xã hội tại vùng ĐBDTTS&MN giúp người dân có thu nhập cao hơn, là tiền đề để nâng cao trình độ dân trí và từ đó cải thiện khả năng, nhu cầu tìm hiểu tự thân cũng như tiếp cận những thông tin pháp luật được cơ quan Nhà nước phổ biến tới người dân; bên cạnh đó, tăng cường khả năng tiếp cận thông tin pháp luật thông qua cơ hội mua sắm những văn hóa phẩm và các phương tiện kỹ thuận số để trang bị thông tin, kiến thức pháp luật một cách dễ dàng hơn.
Ngược lại, sống trong điều kiện kinh tế - xã hội kém phát triển tại vùng ĐBDTTS&MN đồng nghĩa với việc phần lớn người dân có mức thu nhập thấp, dẫn đến trình độ học vấn hạn chế, từ đó gặp khó khăn trong khả năng tiếp cận và hiểu được thông tin pháp luật do thiếu tài nguyên, kiến thức và thời gian. Việc chăm lo, đầu tư cơ sở vật chất và phương tiện hiện đại cho người dân từ phía chính quyền địa phương sẽ không được đồng đều, người dân không có điều kiện đầu tư để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, ý thức chủ động, tích cực tham gia cùng chính quyền địa phương giúp cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được diễn ra thuận lợi, dễ dàng, thông tin, kiến thức pháp luật được truyền đạt nhanh chóng. Kéo theo cơ sở vật chất và các phương tiện lỗi thời, lạc hậu sẽ làm giảm đi đáng kể hiệu quả của công tác PBGDPL(5). Bên cạnh đó, tình trạng thất nghiệp và nghèo đói tại vùng ĐBDTTS&MN cũng có thể làm tăng nguy cơ vi phạm pháp luật vì mục đích sinh tồn, bất chấp việc người dân có được PBGDPL một cách đầy đủ hay không.
Do vậy, việc phát triển điều kiện kinh tế - xã hội cũng đồng nghĩa với việc gia tăng tính bền vững của công tác PBGDPL tại vùng ĐBDTTS&MN. Điều kiện kinh tế - xã hội càng phát triển, khả năng nâng cao mức sống, thỏa mãn nhu cầu của người dân tại vùng ĐBDTTS&MN càng cao. Khi đã có mức sống vật chất đầy đủ, người dân tại vùng ĐBDTTS&MN sẽ chú trọng đến các nhu cầu tinh thần, trong đó họ thường đặc biệt lưu tâm tới nâng cao trình độ văn hóa nói chung và trình độ nhận thức pháp luật nói riêng.
Kết luận
Triển khai hiệu quả, đồng bộ, thống nhất các giải pháp nêu trên vừa là phương hướng thực hiện nhiệm vụ đặt ra tại Kết luận số 80- KL/TW ngày 20/6/2020 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân(6), vừa góp phần giúp cho công tác PBGDPL tại vùng ĐBDTTS&MN hướng đến thực chất và mang tính bền vững. Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả, đồng bộ, thống nhất các giải pháp nêu trên đòi hỏi phải có sự quyết tâm, đồng lòng, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, giữa Trung ương với địa phương không chỉ trong ngắn hạn, mà còn là trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.
(1) Lê Vệ Quốc, Một số yếu tố tác động đến công tác PBGDPL tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay, Tạp chí Nghề luật, tháng 7/2024. (2) Bộ Nội vụ, Chuyên đề 6: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam, Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch lên chuyên viên chính khối Đảng, Đoàn thể năm 2019, Hà Nội, 2019, tr. 3. (3) Xem thêm: Báo cáo về tình hình triển khai Nghị định số 55/2019/NĐ-CP của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2023 của Bộ Công thương, tỉnh Quảng Trị, tỉnh Long An, tỉnh Phú Yên, tỉnh Nghệ An, tỉnh Bạc Liêu. (4) Lê Vệ Quốc, tlđd. (5) Chính phủ (2019), Báo cáo Đề án phát triển kinh tế - xã hội tổng thể vùng ĐBDTTS có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn giai đoạn 2021-2030: Khoảng cách phát triển giữa các dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh, giữa các nhóm dân tộc thiểu số, giữa miền núi và miền xuôi chưa được rút ngắn. Thu nhập bình quân của hộ đồng bào DTTS ở nhiều nơi chỉ bằng 40-50% bình quân thu nhập trong khu vực 41; tỷ lệ dân số DTTS chiếm 14,6% nhưng tỷ lệ hộ nghèo chiếm 55,27 % tổng số hộ nghèo của cả nước; có 9 tỉnh tỷ lệ hộ DTTS nghèo chiếm trên 90% hộ nghèo của cả tỉnh. (6) Chỉ thị số 32-CT/TW nêu rõ: “Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật”; “Ưu tiên bố trí nguồn lực cho các nhóm đối tượng đặc thù yếu thế, đồng bào dân tộc, người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”. |
TS LÊ VỆ QUỐC - NGUYỄN THÀNH HUY
Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật - Bộ Tư pháp