/ Góc nhìn
/ Đánh thuế thu nhập cá nhân khi bán vàng như thế nào cho hợp lý?

Đánh thuế thu nhập cá nhân khi bán vàng như thế nào cho hợp lý?

26/09/2025 10:02 |

(LSVN) - Nếu chính sách thuế hợp lý thì thị trường vàng sẽ đi vào nền nếp, giảm tâm lý “thèm vàng” của người dân, hướng dòng tiền vào phát triển kinh tế thực, từ đó thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững.

Việc đánh thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với hoạt động mua bán vàng là một vấn đề đang được dư luận quan tâm. Tại Nghị quyết 278/NQ-CP, Chính phủ đã yêu cầu trong Dự thảo Luật Thuế TNCN (sửa đổi) phải quy định rõ: Thu nhập từ hoạt động giao dịch mua bán vàng thuộc đối tượng chịu thuế. Đồng thời, Bộ Tài chính phối hợp cùng Ngân hàng Nhà nước sẽ thống nhất nội dung này để đưa vào dự thảo trình Quốc hội.

Động thái này nhằm nâng cao tính minh bạch của thị trường, hạn chế tình trạng đầu cơ, tích trữ vàng - vốn từ lâu đã là một đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. Vấn đề đặt ra là: nên đánh thuế TNCN khi bán vàng theo cách nào cho công bằng, hợp lý và dễ thực thi trên thực tế?

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Vì sao cần đánh thuế với hoạt động đầu tư vàng?

Hiện nay, các kênh đầu tư khác như bất động sản, chứng khoán đều đã thuộc đối tượng chịu thuế TNCN. Vàng cũng là một kênh đầu tư có khả năng sinh lời, thậm chí được nhiều người coi là nơi trú ẩn an toàn trong bối cảnh biến động chính trị, kinh tế, lạm phát. Vì vậy, đưa hoạt động giao dịch vàng vào diện chịu thuế là cần thiết, nhằm tạo sự bình đẳng giữa các loại hình đầu tư, tránh việc vàng trở thành “miền đất hứa” không bị kiểm soát thuế.

Hơn nữa, Việt Nam từ lâu có tình trạng người dân đổ xô mua vàng tích trữ, dễ dẫn tới “vàng hóa” nền kinh tế, gây áp lực cho quản lý tiền tệ. Việc áp thuế sẽ góp phần hạn chế đầu cơ, khuyến khích dòng tiền chảy vào sản xuất, kinh doanh - những lĩnh vực mang lại giá trị gia tăng cho nền kinh tế.

Đánh thuế trên lợi nhuận hay giá trị giao dịch?

Về nguyên tắc, thuế TNCN phải tính trên phần lợi nhuận mà người bán thu được, tức là: Thu nhập tính thuế = Giá bán – Giá mua – Chi phí hợp lý. Nếu hòa vốn hoặc lỗ, người bán sẽ không phải nộp thuế. Cách tính này bảo đảm công bằng, phù hợp với bản chất của thuế TNCN.

Tuy nhiên, thực tế thị trường vàng Việt Nam lại tồn tại nhiều vướng mắc: Phần lớn người dân mua vàng tại các cửa hàng nhỏ lẻ, không có hóa đơn chứng từ; nhiều người mua từ rất lâu, giấy tờ đã thất lạc; chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia để theo dõi giao dịch vàng.

Chính vì vậy, nếu áp dụng ngay cách tính thuế dựa trên lợi nhuận, cơ quan quản lý sẽ gặp khó khăn trong việc xác minh giá mua ban đầu.

Giải pháp ngắn hạn: Đánh thuế trên giá trị giao dịch

Trong giai đoạn trước mắt, phương án khả thi là tính thuế TNCN dựa trên giá trị giao dịch thay vì lợi nhuận. Cách làm này đơn giản, dễ triển khai: Khi người dân bán vàng cho các tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh vàng, đơn vị này sẽ khấu trừ thuế ngay tại nguồn trước khi thanh toán; người bán không cần chứng minh giá mua ban đầu.

Tất nhiên, phương án này có nhược điểm: người hòa vốn hoặc lỗ vẫn phải nộp thuế. Song, ưu điểm lớn là khả thi trên thực tế, giảm thiểu gian lận, thất thu ngân sách.

Để hạn chế tối đa sự bất cập, mức thuế suất nên thấp, chỉ từ 0,1% đến 0,5% giá trị giao dịch. Đây là mức vừa đủ để quản lý, nhưng không gây gánh nặng quá lớn cho người dân.

Ngoài ra, Nhà nước có thể ban hành cơ chế chuyển tiếp: cho phép người dân kê khai lượng vàng đã mua từ trước nhưng không còn hóa đơn, chứng từ và cơ quan chức năng sẽ cấp giấy xác nhận. Nếu người dân tiếp tục giữ lượng vàng đó trong một khoảng thời gian nhất định (như là trong vòng 2 năm) rồi mới bán, họ sẽ được miễn thuế TNCN. Cách làm này tránh tình trạng người tích lũy vàng lâu năm bị “thiệt thòi” khi chính sách mới được áp dụng.

Giải pháp lâu dài: Quản lý bằng hóa đơn và cơ sở dữ liệu

Về lâu dài, mọi giao dịch mua bán vàng cần phải có hóa đơn chứng từ. Khi đó, việc tính thuế TNCN sẽ quay về đúng bản chất: dựa trên lợi nhuận thực tế.

Người bán vàng có hóa đơn chứng minh giá mua, khi bán sẽ khấu trừ chi phí để tính lợi nhuận chịu thuế. Trường hợp không có hóa đơn, sẽ áp dụng phương thức tính thuế theo giá trị giao dịch.

Để thực hiện điều này, cần xây dựng cơ sở dữ liệu giao dịch vàng liên thông toàn quốc, tương tự như cơ sở dữ liệu nhà đất hay chứng khoán. Khi hệ thống vận hành, mọi giao dịch sẽ được minh bạch, hạn chế tối đa gian lận.

Những trường hợp cần miễn hoặc giảm thuế

Một chính sách thuế hợp lý không chỉ thu đúng, thu đủ mà còn phải bảo đảm tính nhân văn, linh hoạt. Vì vậy, cần cân nhắc các trường hợp được miễn hoặc giảm thuế TNCN khi bán vàng, chẳng hạn:

- Người mua vàng tích lũy, tiết kiệm: Đây là những người mua vàng để giữ của, chỉ bán khi thật sự cần thiết (ốm đau, ma chay, kinh doanh). Họ không phải là nhà đầu cơ, nên cần có chính sách miễn hoặc giảm thuế.

- Người bán vàng giá trị nhỏ: Có thể quy định ngưỡng miễn thuế, ví dụ tổng giá trị vàng bán trong năm dưới 200 triệu đồng sẽ không phải nộp thuế.

- Đánh thuế vào việc mua bán vàng trang sức phải thấp hơn vàng đầu tư: Trường hợp bán vàng trang sức (nhẫn cưới, dây chuyền, vòng tay…) thì mức thuế suất phải thấp hơn trường hợp bán vàng miếng. Ví dụ, một cặp vợ chồng bán lại vàng cưới để lấy vốn kinh doanh không thể đánh thuế ngang với người thường xuyên “lướt sóng” vàng miếng.

Việc thiết kế chính sách thuế theo hướng phân loại này sẽ tập trung đánh vào giới đầu cơ, các giao dịch lớn, thay vì gây thiệt thòi cho người dân tích lũy truyền thống.

Tác động kỳ vọng của chính sách

Nếu được xây dựng hợp lý, chính sách đánh thuế TNCN trong hoạt động mua bán vàng sẽ mang lại nhiều lợi ích. Đơn cử như sau:

- Tăng tính minh bạch của thị trường vàng, giúp Nhà nước dễ dàng kiểm soát dòng tiền.

- Hạn chế tình trạng đầu cơ, “lướt sóng” vàng, giảm áp lực lên thị trường ngoại hối và tỉ giá.

- Khuyến khích dòng vốn chảy vào sản xuất, kinh doanh, tạo động lực tăng trưởng bền vững.

- Tăng thu ngân sách, phục vụ các mục tiêu an sinh xã hội.

Tuy nhiên, cần tránh thiết kế thuế quá cao hoặc quá phức tạp, bởi điều này có thể khiến thị trường vàng “chui” bùng phát, gây thất thu thuế và chính sách mới bị vô hiệu trên thực tế.

Kết luận

Việc đánh thuế TNCN đối với hoạt động mua bán vàng là xu hướng tất yếu, nhằm tạo bình đẳng giữa các kênh đầu tư, hạn chế đầu cơ, tăng minh bạch. Trong ngắn hạn, có thể áp dụng phương án đánh thuế theo giá trị giao dịch với mức thuế suất thấp, đi kèm cơ chế chuyển tiếp cho người đã tích lũy vàng lâu năm. Về dài hạn, cần xây dựng hệ thống hóa đơn, cơ sở dữ liệu liên thông để tính thuế dựa trên lợi nhuận thực tế. Đồng thời, phải có chính sách miễn giảm cho người dân mua vàng tích lũy, giao dịch nhỏ lẻ, và phân biệt rõ vàng trang sức với vàng đầu tư.

Nếu làm được điều này, chính sách thuế không chỉ thu đúng, thu đủ mà còn góp phần đưa thị trường vàng đi vào nền nếp, giảm tâm lý “thèm vàng” của người dân, hướng dòng tiền vào phát triển kinh tế thực, từ đó thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững.

Luật sư PHẠM THANH HỮU

Đoàn Luật sư TP. HCM

Các tin khác