1. Giữ lời hứa, lời cam kết là một trong những yếu tố biểu hiện của đạo đức và là một phẩm chất tốt đẹp cần xây dựng, phát huy, trân trọng trong thực tiễn cuộc sống. Giữ lời hứa, lời cam kết có ý nghĩa rất quan trọng góp phần tạo nên sự tin tưởng, uy tín đối với mỗi tập thể, cá nhân. Suy rộng ra trong hoạt động của các cơ quan cũng như hoạt động của người đứng đầu các cơ quan nhà nước thì việc giữ lời hứa, lời cam kết trong giải quyết các vấn đề cụ thể thuộc phạm vi trách nhiệm của mình chính là thể hiện tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc được giao, góp phần xây dựng hình ảnh, uy tín, niềm tin, sự yêu mến của cá nhân, cơ quan nhà nước đối với quần chúng nhân dân. Niềm tin, sự tin tưởng của Nhân dân đối với cơ quan công quyền mang lại ý nghĩa lớn lao, là nguồn cổ vũ có sức mạnh to lớn giúp Đảng, Nhà nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách đi đến bến bờ của thành công.
Trên thực tế cho thấy việc giữ lời hứa, lời cam kết, thực hiện đúng lời hứa, lời cam kết của các cơ quan công quyền nói chung, của Quốc hội và đại biểu Quốc hội với cử tri nói riêng luôn là vấn đề mang tính thời sự, nóng bỏng, được dư luận đặc biệt quan tâm. Việc giữ lời hứa, lời cam kết, thực hiện đúng lời hứa, lời cam kết là “thước đo” mức độ “xứng đáng” của người đại biểu với phiếu bầu cử tri dành cho họ. Nhận thức sâu sắc ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của việc giữ lời hứa, lời cam kết của các cơ quan nhà nước, các đại biểu Quốc hội với cử tri và Nhân dân, trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta xác định nhiệm vụ quan trọng đầu tiên trong 6 nhiệm vụ trọng tâm nhiệm kỳ Đại hội XIII là: “Củng cố lòng tin, sự gắn bó của Nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa” [1].
Là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện mọng, mong muốn của cử tri và Nhân dân cả nước, Quốc hội là cơ quan có vị trí, vị thế, vai trò đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước. Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) đều quy định rất rõ: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” [2]. Để thảo luận và quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn được giao, Quốc hội tổ chức các kỳ họp thường lệ hoặc họp bất thường trong một số trường hợp cần thiết. Thực tiễn tại các kỳ họp của Quốc hội những năm qua thường thấy có những lời hứa, lời cam kết của tập thể, cá nhân có thẩm quyền giữ trọng trách khác nhau được Quốc hội, cử tri và Nhân dân cả nước rất quan tâm và chờ đợi được thực hiện. Những lời hứa, lời cam kết này thường là của Quốc hội nói chung mà đồng chí Chủ tịch Quốc hội đại diện đưa ra hoặc trong quá trình chất vấn, trả lời chất vấn tại nghị trường hoặc trong thực hiện các nghị quyết của Quốc hội thường xuất hiện những lời hứa, lời cam kết của Chính phủ, các thành viên Chính phủ và Trưởng các ngành về các vấn đề cụ thể trong phạm vi lĩnh vực được phân công phụ trách.
Đối với những lời hứa, lời cam kết của Quốc hội: Trong mỗi giai đoạn cách mạng, cùng với quyết tâm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, những lời hứa, lời cam kết của Quốc hội có thể khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đất nước. Suy cho cùng, những lời hứa và cam kết đó là sự quyết tâm phấn đấu thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, xứng đáng với sự tín nhiệm, kỳ vọng, mong đợi của đông đảo cử tri và Nhân dân cả nước. Giám sát thực hiện những lời hứa và cam kết của Quốc hội trước cử tri và Nhân dân chính là việc Quốc hội tự mình kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, nhất là những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của Quốc hội trong mỗi giai đoạn nhằm hoàn thành tốt các chương trình công tác đã đề ra.
Đối với những lời hứa, lời cam kết của Chính phủ, các thành viên Chính phủ và Trưởng các ngành tại các kỳ họp của Quốc hội chính là lời hứa và cam kết trước Quốc hội, cử tri và Nhân dân cả nước trong thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và trong giải quyết các vấn đề cụ thể mà thực tiễn phát sinh liên quan đến thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình. Giám sát thực hiện những lời hứa, lời cam kết của Chính phủ, các thành viên Chính phủ và Trưởng các ngành là Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, đồng thời cũng là toàn Đảng, toàn quân, cử tri và Nhân dân cả nước. Bởi vì, cử tri và Nhân dân cả nước chính là những người sẽ được thụ hưởng từ những kết quả trong quá trình thực hiện những lời hứa, lời cam kết đó khi các vấn đề phát sinh trong thực tiễn được giải quyết.
Kết quả thực hiện những lời hứa, lời cam kết của Quốc hội và của Chính phủ, các thành viên Chính phủ và Trưởng các ngành tại các kỳ họp Quốc hội không chỉ thể hiện năng lực, trách nhiệm, sự quyết tâm, nỗ lực cố gắng, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ được giao mà còn thể hiện uy tín, danh dự của Quốc hội, của Chính phủ, các Bộ, ngành cũng như người đứng đầu của các cơ quan này. Để những lời hứa, lời cam kết trước cử tri và Nhân dân trở thành hiện thực, lan tỏa những kết quả đó đến xã hội, đến Nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại, nâng cao chất lượng đời sống Nhân dân, xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng hùng cường, thịnh vượng cần có thời gian với lộ trình và phương án phù hợp, xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện cụ thể.
2. Những năm qua, cùng với quá trình hoạt động của Quốc hội nước ta, những lời hứa, lời cam kết của Quốc hội và của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Trưởng các ngành trước cử tri và Nhân dân đã thường xuyên được nêu trong các diễn đàn của Quốc hội. Có thể đưa ra một vài ví dụ minh chứng cho nội dung này, đó là:
Trong bài phát biểu tuyên thệ nhậm chức Chủ tịch Quốc hội Khóa XIV vào tháng 7/2016, đồng chí Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân khi đó đã nhấn mạnh: “Tôi sẽ cùng với các đại biểu Quốc hội phấn đấu tiếp tục đổi mới để nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội để Quốc hội ta thật sự là một Quốc hội đoàn kết, sáng tạo và hành động vì lợi ích của nhân dân, vì danh dự và lòng tự hào của dân tộc, vì sự phát triển bền vững của đất nước”. Đó là lời hứa danh dự, lời cam kết của đồng chí Chủ tịch Quốc hội Khóa XIV trước Đảng, trước cử tri và Nhân dân cả nước khi được tín nhiệm bầu vào vị trí cao nhất của Quốc hội nước ta. Tiếp sau đó, những lời hứa, lời cam kết này đã trở thành phương châm hành động của cả Quốc hội trong suốt nhiệm kỳ XIV. Thông qua những kết quả rất đáng khích lệ được tổng kết khi kết thúc nhiệm kỳ, những lời hứa và lời cam kết này đã trở thành hiện thực khi mà trong nhiệm kỳ này Quốc hội nước ta đã có nhiều đổi mới quan trọng về quy trình xây dựng pháp luật, đã thông qua tổng cộng 72 luật, 02 pháp lệnh và 18 nghị quyết, góp phần kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, từng bước tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày càng phát huy dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân. Hoạt động giám sát của Quốc hội đã có nhiều đổi mới và chuyên nghiệp hơn, bao quát tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ, quốc phòng - an ninh, đối ngoại và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đồng thời tập trung vào các vấn đề mà dư luận quần chúng nhân dân quan tâm. Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn đã được đổi mới về cách thức thực hiện theo hướng rút gọn thời gian nhằm được nghe nhiều nội dung chất vấn và trả lời chất vấn hơn, tạo ra không khí sôi nổi tại nghị trường. Quốc hội luôn duy trì tinh thần đoàn kết, phát huy trí tuệ tập thể, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước trong thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Theo đó, đã có một số vấn đề đặc biệt quan trọng lần đầu tiên được Quốc hội quyết định trong nhiệm kỳ này như: Kế hoạch tài chính 05 năm của quốc gia; Đề án tổng thể và Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng baò dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; phê chuẩn 02 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là CPTPP và EVFTA… Bên cạnh đó, hoạt động đối ngoại của Quốc hội ngày càng được đẩy mạnh và mở rộng trên cả bình diện song phương và đa phương, đưa ngoại giao nghị viện đi vào chiều sâu, góp phần làm cho Nhân dân thế giới và bạn bè quốc tế hiểu biết rõ hơn về đất nước, con người và nền văn hóa Việt Nam. Chủ tịch Quốc hội và các Phó chủ tịch Quốc hội nước ta đã trao 45 quyết định thành lập 45 Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Việt Nam với các nước. Quốc hội đã có nhiều sáng kiến, đóng góp quan trọng trong khuôn khổ diễn đàn của Liên minh Nghị viện thế giới (IPU), Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương, Hội đồng liên nghị viện các nước Asean.
Hiện nay, Quốc hội đang tiếp tục triển khai các hoạt động trong nửa cuối của nhiệm kỳ khóa XV. Với lời hứa và cam kết của Quốc hội thông qua bài phát biểu của nguyên Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ ở đầu nhiệm kỳ đó là: “Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội vì mục tiêu tối thượng là phụng sự lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; phát huy cao độ dân chủ, đoàn kết, pháp quyền, liêm chính, công khai, minh bạch, tăng tính chuyên nghiệp, không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội cả về công tác lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước”, nhiều nội dung đã được cụ thể hóa trong thực tiễn. Điển hình như: Tinh thần “lập pháp chủ động”, “lập pháp kiến tạo” đã được thể hiện rõ trong công tác lập pháp với 1.010 văn bản, gồm 23 luật, 101 nghị quyết của Quốc hội, 4 pháp lệnh và 882 nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã được ban hành trong nửa đầu nhiệm kỳ, hoàn thành 114/137 nhiệm vụ nghiên cứu lập pháp (chiếm 83,21%). Lần đầu tiên trong lịch sử hoạt động, Quốc hội nước ta đã tổ chức các phiên họp bất thường thông qua các luật, nghị quyết nhằm đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch Covid-19 cũng như nhu cầu phục hồi nền kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội sau đại dịch. Trong quyết sách những vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội, Quốc hội đã ban hành nhiều nghị quyết thí điểm áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù đối với một số địa phương như: Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ. Công tác giám sát của Quốc hội cũng đã được nâng cao thêm một bước với việc thông qua Đề án và ban hành Kết luận số 843-KL/ĐĐQH15, ngày 03/8/2022 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội cũng như ban hành 15 nghị quyết về giám sát chuyên đề và chất vấn.
Những năm qua, hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội và trả lời chất vấn của Chính phủ, các thành viên Chính phủ và Trưởng các ngành đã có nhiều đổi mới và ngày càng nâng cao chất lượng, hiệu quả, đặc biệt là sau khi Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 có hiệu lực. Thực chất hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn là nhằm yêu cầu Chính phủ, các thành viên Chính phủ và Trưởng các ngành trả lời về kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, trong đó đưa ra các vấn đề nổi cộm, vướng mắc thuộc các lĩnh vực khác nhau được cử tri và Nhân dân quan tâm, đề nghị giải đáp và có biện pháp giải quyết. Trong quá trình giải đáp chất vấn của đại biểu Quốc hội, Chính phủ và các thành viên Chính phủ, Trưởng các ngành đã đưa ra những lời hứa và cam kết trong việc chỉ đạo thực hiện các biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề mà đại biểu Quốc hội đại diện cho cử tri và Nhân dân đặt ra. Qua thống kê trong hai năm đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đã có 923 lượt đại biểu tham gia chất vấn [3], đồng thời tổng số kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội là 2.765, trong đó đã giải quyết và trả lời được 2.751/2.765 kiến nghị, đạt 99,5% [4]. Những kết quả đạt được rất đáng khích lệ này là minh chứng cho việc hiện thực hóa những lời hứa, lời cam kết của Chính phủ, các thành viên Chính phủ và Trưởng các ngành trước Quốc hội, cử tri và Nhân dân cả nước. Chính vì vậy, trong Báo cáo tổng hợp nội dung thẩm tra về việc thực hiện một số nghị quyết của Quốc hội khóa XIV về giám sát chuyên đề, chất vấn và nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XV đến hết Kỳ họp thứ tư đã đưa ra đánh giá: “Thời gian qua, Chính phủ, các bộ, ngành đã tích cực, chủ động triển khai nhiều giải pháp để thực hiện nghiêm các nghị quyết của Quốc hội, tạo sự chuyển biến tích cực trong một số lĩnh vực”.
Qua những phân tích và ví dụ cụ thể ở trên cho thấy, việc đưa ra và hiện thực hóa những lời hứa, lời cam kết của Quốc hội và của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Trưởng các ngành trước cử tri và Nhân dân trong những năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng và có chuyển biến rõ rệt so với những năm trước đây. Đạt được kết quả như vậy là do Quốc hội đã thường xuyên đổi mới, đi vào thực chất và không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, đồng thời thể hiện trách nhiệm ngày càng cao của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, của Chính phủ, các thành viên Chính phủ và Trưởng các ngành trước cử tri và Nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình đó không tránh khỏi có những lời hứa, lời cam kết trước cử tri và Nhân dân còn chậm được hiện thực hóa hoặc chưa được giải quyết thấu đáo, triệt để xuất phát từ các nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau.
3. Để những lời hứa, lời cam kết trước cử tri và Nhân dân kịp thời được hiện thực góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội hướng tới xây dựng Quốc hội chuyên nghiệp thời gian tới nên tập trung thực hiện các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, nâng cao hơn nữa nhận thức và ý thức trách nhiệm của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và của Chính phủ, các thành viên Chính phủ và Trưởng các ngành trong việc thực hiện những lời hứa, lời cam kết trước cử tri và Nhân dân. Khi các tập thể và cá nhân đã đưa ra những lời hứa, lời cam kết trước cử tri và Nhân dân thì phải tập trung công tác lãnh đạo, chỉ đạo, huy động lực lượng và có biện pháp giải quyết thấu đáo, tận gốc các vấn đề, phải luôn ý thức và chịu trách nhiệm trước những lời hứa và lời cam kết của mình, không để những lời hứa, lời cam kết đó trở thành những lời hứa, lời cam kết “xuông”, làm suy giảm uy tín, niềm tin của Nhân dân đối với cơ quan công quyền.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, nhất là trong thực hiện chức năng giám sát tối cao và tổ chức có hiệu quả các phiên chất vấn và trả lời chất vấn, giải quyết kiến nghị của cử tri. Trong đó, việc tái giám sát và chú trọng giám sát những vấn đề sau giám sát, theo dõi đến cùng các vấn đề đã giám sát và chất vấn tại Quốc hội cần được tăng cường hơn nữa để Quốc hội, cử tri và Nhân dân cả nước được nghe báo cáo nắm được đầy đủ những thông tin cần thiết, tiến độ thực hiện các cam kết và kết quả giải quyết những vấn đề đã đặt ra mà Chính phủ, các thành viên Chính phủ và Trưởng các ngành đã hứa.
Thứ ba, phát huy vai trò và có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho cử tri và Nhân dân tham gia giám sát, đánh giá trong quá trình thực hiện những lời hứa, lời cam kết của Quốc hội của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Trưởng các ngành. Bởi hơn ai hết, cử tri và Nhân dân cả nước là những người kiến nghị nhiều vấn đề nổi cộm, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn, có nhu cầu được giải đáp các vấn đề đó, đồng thời cũng chính là những người được thụ hưởng, lan tỏa từ những kết quả thực hiện những lời hứa, lời cam kết của các tập thể và cá nhân trước Quốc hội.
Thứ tư, Quốc hội cần nghiên cứu và đưa ra những cơ chế, chính sách động viên, khuyến khích, khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân mạnh dạn đưa ra những lời hứa, lời cam kết trước cử tri và Nhân dân cả nước và kịp thời triển khai hiệu quả các giải pháp, biện pháp cụ thể nhằm hiện thực hóa những lời hứa, lời cam kết đó. Có sự điều phối nhằm nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương để hỗ trợ các tập thể, cá nhân trong quá trình thực hiện những lời hứa, lời cam kết. Đồng thời, cần có những biện pháp để xử lý trách nhiệm đối với các tập thể, cá nhân không thực hiện được những lời hứa, lời cam kết đối với cử tri và Nhân dân hoặc chậm thực hiện vì lý do chủ quan.
Thứ năm, kiên trì, quyết tâm xây dựng văn hóa từ chức. Tích cực tuyên truyền trong xã hội về văn hóa từ chức, định hướng dư luận xã hội không nên nặng nề về việc từ chức bởi đây là việc hết sức bình thường, nên làm trong một xã hội văn minh, phát triển. Nghiên cứu ban hành quy định, luật hóa việc từ chức, có hướng dẫn chi tiết, cụ thể để người từ chức không cảm thấy nặng nề, mặc cảm khi quyết định từ trước. Khuyến khích cán bộ từ chức một cách tự nguyện, tự giác khi không còn phù hợp với vị trí công tác, không thực hiện được những lời hứa, lời cam kết trước cử tri và Nhân dân cả nước.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 334.
[2] Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Hà Nội.
[3] Nho Tuấn, Khai mạc phiên họp chất vấn và trả lời chất vấn kỳ họp thứ 6: Tái giám sát các vấn đề đã giám sát, chất vấn, https://dbnd.quangnam.gov.vn, truy cập ngày 20/9/2024.
[4] Bích Ngọc, Hơn 99% kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV đã được giải quyết, trả lời, https://quochoi.vn, đăng ngày 23/10/2023, truy cập ngày 20/9/2024.
Tiến sĩ NGUYỄN THỊ THANH NGA
Khoa Luật, Học viện Chính trị Công an nhân dân