Để thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững, rất cần nhận diện những điểm nghẽn trong cơ chế, chính sách đối với khu vực doanh nghiệp này để từ đó đưa ra các định hướng, giải pháp tháo gỡ trong thời gian tới.
Vị trí, vai trò và đóng góp của doanh nghiệp nhà nước
Chủ trương, quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế đã có những thay đổi qua các kỳ đại hội của Đảng cùng với quá trình đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng, sự phát triển của nền kinh tế, của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta luôn được khẳng định và được định hướng bởi chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nhà nước cũng như việc sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước.
Thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, nhiều chính sách về đổi mới, sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước được ban hành, đặc biệt là những quy định về ngành, lĩnh vực duy trì vốn nhà nước.
Có thể đánh giá kết quả tích cực, hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế trong thực hiện vai trò của khu vực doanh nghiệp nhà nước ở những điểm chính sau:
Những kết quả tích cực
Một là, thời gian qua, số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm mạnh cùng với việc thực hiện cơ cấu lại, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Mặc dù chỉ chiếm gần 0,4% số lượng doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn đang nắm giữ nhiều nguồn lực quan trọng của nền kinh tế, chiếm khoảng 25,78% tổng số vốn sản xuất, kinh doanh; 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh; quản lý, khai thác phần lớn tài sản thuộc sở hữu toàn dân như khoáng sản, tài nguyên, kết cấu hạ tầng một số ngành then chốt,...
Hai là, các doanh nghiệp nhà nước đang giữ vai trò chi phối nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt của nền kinh tế. Trong ngành viễn thông, thông tin, liên lạc, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) giữ vai trò chi phối. Viettel cũng là doanh nghiệp đầu tư hiệu quả và có uy tín ra một số nước.
Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, 4 ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nhà nước lớn là Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank), Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) với tổng tài sản và dư nợ tín dụng chiếm trên 50% toàn hệ thống ngân hàng, đóng vai trò bảo đảm cung ứng kịp thời nguồn vốn để phát triển kinh tế, hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời cũng là lực lượng tiên phong thực hiện các chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về lãi suất, tỷ giá nhằm giữ ổn định thị trường tiền tệ và an toàn hệ thống tín dụng ngân hàng; là công cụ hỗ trợ dẫn dắt thị trường và góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước như Tập đoàn Cao su, Tổng công ty VINAFOOD 1, VINAFOOD 2,... là nòng cốt trong phát triển ngành cao-su, trong bảo đảm an ninh lương thực, tiêu thụ lúa gạo cho hàng triệu hộ nông dân. Trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, một số doanh nghiệp nhà nước như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV); Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex),... đã thể hiện tốt vai trò của mình.
Ba là, doanh nghiệp nhà nước có vai trò lớn trong sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trực tiếp tham gia phục vụ an ninh - quốc phòng, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh - quốc phòng và chủ quyền quốc gia. Các doanh nghiệp nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội, trước hết là kết cấu hạ tầng giao thông, nông nghiệp, nông thôn, năng lượng, viễn thông. Trong một số thời điểm, nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội, phục vụ chính sách điều tiết kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bình ổn giá,...
Đặc biệt trong đại dịch Covid-19, mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng các doanh nghiệp nhà nước luôn là công cụ mạnh để Đảng, Nhà nước điều tiết, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội trong nước.
Một số hạn chế, yếu kém
Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng việc thực hiện vai trò của doanh nghiệp nhà nước còn một số hạn chế, yếu kém:
Thứ nhất, thực tế, hiện nay, doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, trực tiếp nắm các nguồn lực quan trọng và giữ vị trí chi phối trong nhiều ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Tuy nhiên, kết quả thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, mà doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt chưa rõ.
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện rõ vai trò nổi bật trong việc dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, hướng dẫn, thúc đẩy các thành phần khác phát triển, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng. Doanh nghiệp nhà nước còn yếu ở những ngành có ảnh hưởng quyết định đến việc hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của khu vực doanh nghiệp Việt Nam; trước hết là các ngành công nghệ cao, các ngành có khả năng dẫn dắt, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa như cơ khí chính xác, sản xuất, chế tạo linh kiện, máy móc và thiết bị hoàn chỉnh cho các ngành sản xuất; công nghệ nguồn...
Thứ ba, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong hỗ trợ và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn chưa nổi bật. Việc doanh nghiệp nhà nước tham gia thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phục vụ an ninh - quốc phòng có kết quả đáng ghi nhận, song thiếu rõ ràng về mục tiêu, nhiệm vụ và hiệu quả.
Thứ tư, hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
Về nguyên nhân chủ quan, có thể kể đến các nguyên nhân sau:
Một số bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp nhà nước chưa nghiêm túc, quyết liệt trong chỉ đạo và triển khai thực hiện phương án sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn và niêm yết cổ phiếu.
Lực lượng lao động trong doanh nghiệp nhà nước còn đông, năng suất lao động thấp, lao động có trình độ tay nghề cao còn thiếu và yếu. Trang thiết bị cho sản xuất, kinh doanh còn lạc hậu, chưa theo kịp kỹ thuật tiên tiến của thế giới và yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Tổ chức bộ máy trong doanh nghiệp nhà nước còn cồng kềnh, thiếu hiệu lực, hiệu quả. Vấn đề giải quyết lao động dôi dư trong quá trình cổ phần hóa còn nhiều bất cập, làm chậm tiến trình cổ phần hóa. Công tác tổ chức cán bộ chưa tốt, năng lực quản lý còn bất cập. Tại cơ quan chủ quản chưa có đơn vị đủ mạnh, đủ năng lực để thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu. Việc giám sát quản lý hoạt động, điều hành đối với người quản lý doanh nghiệp chưa chặt chẽ; chế độ đãi ngộ đối với người quản lý doanh nghiệp chưa thỏa đáng.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu, kiểm soát nội bộ chưa hiệu quả là một trong các nguyên nhân dẫn đến những vi phạm trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp trong thời gian qua.
Những nguyên nhân khách quan, chủ yếu đến từ cơ chế, chính sách đối với khu vực này, đó là:
Hệ thống thể chế pháp luật cho doanh nghiệp nhà nước còn chưa đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, gây khó khăn cho việc cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Khuôn khổ pháp lý (luật, pháp lệnh), để thực hiện xử lý các doanh nghiệp, dự án thua lỗ, nhất là các dự án thua lỗ của ngành công thương, các tập đoàn, tổng công ty thua lỗ, mất vốn còn chưa đồng bộ. Hiện, chưa có quy định cụ thể để ưu tiên cho các công trình, dự án trọng điểm quốc gia, có sức lan tỏa lớn, các ngành, lĩnh vực nhà nước cần nắm giữ lâu dài; củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Cơ chế, chính sách về triển khai các hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước còn vướng mắc. Quá trình triển khai các hoạt động đầu tư, kinh doanh kéo dài do quy định về trình tự, thủ tục đầu tư phức tạp, có nhiều vướng mắc dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, bỏ lỡ cơ hội khi thị trường có diễn biến thuận lợi. Còn nhiều bất cập trong đổi mới quản trị, tăng cường tính công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp nhà nước, niêm yết trên thị trường chứng khoán doanh nghiệp sau cổ phần hóa đủ điều kiện; trong cải thiện chất lượng quản trị; trong bảo đảm trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, nhất là người đứng đầu trong cơ cấu lại, cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư nhà nước theo phương án được phê duyệt;...
Việc đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp chưa rõ ràng. Thiếu tiêu chí bảo đảm việc minh bạch thông tin đối với tất cả các doanh nghiệp nhà nước theo các tiêu chuẩn áp dụng đối với các công ty đại chúng; công tác thanh tra, kiểm toán, cơ chế bảo đảm sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội, báo chí và của nhân dân đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế.
Còn thiếu các cơ chế đặc thù để Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp thực sự hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đây là một trong những giải pháp quan trọng trong thay đổi phương thức quản lý vốn nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Nhận diện những “điểm nghẽn”, những vấn đề đặt ra trong cơ chế, chính sách phát triển doanh nghiệp nhà nước hiện nay
Một là,“điểm nghẽn” trong chính sách cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước
Chính sách thu hút cổ đông chiến lược chưa hiệu quả. Chưa có chính sách bảo đảm công khai, minh bạch thông tin. Chính sách thoái vốn nhà nước trong doanh nghiệp vẫn còn có sự chồng chéo giữa một số văn bản và mới chỉ dừng ở các quy định khung mang tính nguyên tắc.
Việc rà soát, phê duyệt phương án sử dụng đất của doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa gặp nhiều khó khăn, nhiều quy trình, thủ tục mất nhiều thời gian do lịch sử pháp lý đất đai phức tạp, địa phương phê duyệt chậm, kéo dài thời gian hơn so với quy định...
Hai là,“điểm nghẽn” về cải tiến mô hình quản trị doanh nghiệp
Quá trình tái cơ cấu, đổi mới doanh nghiệp nhà nước chưa như kỳ vọng không chỉ ở việc sắp xếp, cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước trong doanh nghiệp chưa đạt kế hoạch đề ra, mà còn do các doanh nghiệp nhà nước sau khi được sắp xếp lại, cổ phần hóa, chuyển đổi sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chưa có sự đổi mới thực chất về quản trị kinh doanh, năng lực cạnh tranh còn yếu.
Bộ máy quản lý, điều hành doanh nghiệp nhà nước vẫn tồn tại một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu trong quản trị doanh nghiệp; cơ chế giám sát, đánh giá hoạt động của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên tại doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; các quy định bắt buộc về áp dụng nguyên tắc quản trị theo thông lệ quốc tế còn thiếu nên chưa tạo áp lực, động lực cho các doanh nghiệp nhà nước thực hiện, khiến hệ thống thông tin tài chính doanh nghiệp hiện nay chưa bảo đảm tính minh bạch, khách quan;... Vai trò của các tổ chức đảng trong doanh nghiệp, mối quan hệ với hội đồng quản trị, hội đồng thành viên,... cũng còn nhiều bất cập.
Ba là, những “điểm nghẽn” về cơ chế, chính sách khác
Các chính sách tạo điều kiện kết nối khu vực doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp khác còn yếu. Trong điều kiện nguồn lực của các doanh nghiệp nói chung hiện nay còn hạn chế, việc liên kết giữa khu vực công - tư, hợp tác giữa các loại hình kinh tế, thành phần kinh tế để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu là lời giải cho việc giải quyết các vấn đề về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, thị trường.
Thiếu cơ chế đánh giá hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước cần có sự đánh giá công khai và minh bạch. Chẳng hạn việc tính đúng, tính đủ các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp nhà nước, như đất đai, tài nguyên, tài sản theo đúng giá trị thị trường sẽ cho kết quả về tỷ suất lợi nhuận, hệ số gia tăng của vốn đầu tư (ICOR) chính xác, nhất là khi phải thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội bên cạnh hoạt động kinh doanh.
Vai trò chủ sở hữu vốn nhà nước của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã tiếp nhận còn phát sinh một số vướng mắc như việc xác định cơ quan có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư đối với một số dự án đầu tư của tập đoàn kinh tế, tổng công ty, về phân công, phân cấp thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư…
Ngoài ra, các chính sách chưa có sự rõ ràng, thống nhất cách hiểu một số thuật ngữ liên quan tới doanh nghiệp nhà nước giữa các văn bản pháp luật. Cụ thể, thuật ngữ “Vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp” không có sự thống nhất về cách hiểu trong Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; Luật Đầu tư công; Luật Đấu thầu; Luật Ngân sách nhà nước và Luật Xây dựng, dẫn đến khó khăn trong việc xác định thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng trong triển khai thực hiện.
Giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững, góp phần bảo đảm tính chủ đạo của kinh tế nhà nước
Trước hết, cần khẳng định đúng vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh mới, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới… Cần xác định doanh nghiệp nhà nước theo hướng ưu tiên phát triển các ngành mang tính chất nền tảng, dẫn dắt, tạo động lực phát triển cho đất nước, nhận diện đúng về hoạt động kinh doanh của Nhà nước, ở đây Nhà nước được hiểu là chủ thể trên thị trường, bình đẳng trước pháp luật, đồng thời cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh với nhiệm vụ công ích, chính trị, đặt hàng, làm sao để tạo được véc-tơ đồng chiều. Các cơ chế, chính sách cần bảo đảm các định hướng sau:
Thứ nhất, bảo đảm sự quản lý, giám sát của hệ thống cơ quan nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, cần thúc đẩy và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, đầu tư mở rộng và nâng cao quy mô, hiệu quả; nhưng cần có lựa chọn trọng điểm để tạo sự lan tỏa, bảo đảm doanh nghiệp nhà nước giữ vững được vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước.
Thứ hai, các doanh nghiệp phải hoạt động theo cơ chế thị trường và phải tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động. Nếu doanh nghiệp không thích ứng và điều chỉnh được với sự biến đổi của thị trường, phải cơ cấu lại, sắp xếp lại hoạt động cũng như bộ máy lãnh đạo doanh nghiệp phù hợp.
Thứ ba, lấy thước đo bảo toàn và phát triển vốn làm nguyên tắc và kim chỉ nam trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng như đánh giá, quản lý doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, điều hành của các cơ quan nhà nước, của cơ quan chủ sở hữu cần tôn trọng không can thiệp quá sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chủ động tổ chức sản xuất, kinh doanh để phát triển được vốn nhà nước đã đầu tư sao cho hiệu quả, đồng thời cần nghiên cứu, đánh giá để chỉ rõ hiệu quả khi thực hiện những nhiệm vụ mà Nhà nước giao, bảo đảm tính công bằng, khách quan với các thành phần kinh tế, nhất là trong điều kiện đã tách bạch cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan đại diện chủ sở hữu.
Trên cơ sở đó, cần tập trung thực hiện các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy khu vực doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững:
Một là, sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế pháp luật, tạo khuôn khổ và hành lang pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất để cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Nghiên cứu, rà soát sửa đổi cơ chế quản lý, giám sát và thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan và người đại diện sở hữu nhà nước, hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát doanh nghiệp nhà nước và vốn, tài sản của Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp một cách rõ ràng hơn, phù hợp với bối cảnh, tình hình hiện nay, làm cơ sở cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động, tận dụng được thế mạnh của các doanh nghiệp lớn, phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước.
Tăng cường vai trò và tôn trọng quyền của cơ quan đại diện chủ sở hữu và quyền của doanh nghiệp theo quy định. Hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm tạo quyền chủ động lớn hơn, trách nhiệm rõ ràng hơn cho tập đoàn, tổng công ty nhà nước, kể cả chế độ lương, thưởng gắn với kết quả kinh doanh, cũng như khung mức độ rủi ro trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để tạo tâm lý an tâm và thúc đẩy tìm kiếm hiệu quả đầu tư.
Rà soát, xây dựng cơ chế, chính sách hoặc các quy định cụ thể để tách bạch việc thực hiện sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp với các hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ công ích do Nhà nước đặt hàng cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, thực hiện việc giám sát và đánh giá doanh nghiệp trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh theo đúng chuẩn mực quốc tế và bảo đảm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có vốn nhà nước bình đẳng như các doanh nghiệp khác; tránh việc can thiệp của nhiều cơ quan quản lý vào hoạt động kinh doanh đơn thuần của doanh nghiệp.
Xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý (luật, pháp lệnh) đồng bộ để thực hiện xử lý các doanh nghiệp, dự án thua lỗ, nhất là các dự án thua lỗ của ngành công thương, các tập đoàn, tổng công ty thua lỗ, mất vốn.
Cần nghiên cứu để có quy định cụ thể ưu tiên cho các công trình, dự án trọng điểm quốc gia, có sức lan tỏa lớn, các ngành, lĩnh vực Nhà nước cần nắm giữ lâu dài; củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Hai là, rà soát và hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, quản lý doanh nghiệp. Tăng cường minh bạch thông tin đối với tất cả các doanh nghiệp nhà nước theo các tiêu chuẩn áp dụng đối với các công ty đại chúng; nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp nhà nước; có chế tài xử lý nhằm bảo đảm tính hiệu quả trong việc phối hợp quản lý, sắp xếp doanh nghiệp giữa các bộ, ngành, địa phương. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm toán kịp thời phát hiện các vi phạm, xử lý nghiêm minh đối với các vi phạm tạo sự “răn đe” để nâng cao hiệu quả quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Tăng cường sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội, báo chí và của nhân dân đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Ba là, nâng cao hiệu quả hoạt động và quản trị, sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước: Rà soát, xác định, tập trung vào kinh doanh những ngành, nghề kinh doanh chính và những ngành, nghề liên quan phục vụ trực tiếp ngành, nghề kinh doanh chính. Xây dựng lộ trình và thực hiện thoái vốn tại các doanh nghiệp có vốn góp, bảo đảm công khai, minh bạch, đem lại lợi ích cao nhất cho Nhà nước. Tiếp tục đổi mới quản trị doanh nghiệp; rà soát điều lệ hoạt động, quy chế quản lý nội bộ, làm việc, phương pháp quản trị tại doanh nghiệp. Nghiên cứu cơ chế đối với ban kiểm soát, kiểm soát viên theo hướng hoạt động độc lập, không để xảy ra tình trạng thao túng toàn bộ hoạt động doanh nghiệp, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động kiểm soát nội bộ doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp phải bảo đảm tuân thủ quy định của pháp luật, nguyên tắc thị trường, nguyên tắc quản trị doanh nghiệp, nguyên tắc quản lý tài chính.
Bốn là, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, có các cơ chế đặc thù để Ủy ban thực sự hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Năm là, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng đối với doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới. Nghiên cứu hoàn thiện mô hình tổ chức đảng, mô hình các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất là cán bộ chủ chốt doanh nghiệp, nâng cao tính đảng và ý thức tuân thủ pháp luật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng.
Tiến sĩ PHẠM VIỆT DŨNG/TCCS
Quy định pháp luật về quản lý sử dụng chung cư và vướng mắc trong thực tiễn