Dưới góc độ pháp lý, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết cơ quan điều tra sẽ làm rõ diễn biến hành vi để xác định đối tượng này thực hiện hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản hay cướp giật tài sản theo quy định của pháp luật.
Hành vi của đối tượng trong vụ việc này là xâm hại đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân. Người bị hại được xác định là nhân viên giao hàng, tài sản bị chiếm đoạt là chiếc xe và toàn bộ hàng hóa kèm theo xe. Cơ quan điều tra sẽ tiến hành định giá để xác định giá trị chiếc xe và số hàng hóa trên xe đồng thời làm rõ diễn biến hành vi của đối tượng gây án để có căn cứ khởi tố vụ án hình sự về một trong các tội danh xâm phạm quyền sở hữu theo quy định pháp luật.
Theo quy định của pháp luật thì hành vi công nhiên, lén lút, gian dối,... để chiếm đoạt số tiền từ 2.000.000 đồng trở lên của người khác là hành vi có thể bị xử lý hình sự. Vì vậy, trong vụ việc này có hai yếu tố quan trọng để xác định trách nhiệm pháp lý của đối tượng chiếm đoạt tài sản của nạn nhân đó là giá trị của tài sản và thủ đoạn phương thức, hành vi chiếm đoạt được thực hiện như thế nào.
Trong trường hợp kết quả xác minh, điều tra cho thấy đối tượng đã lợi dụng tình thế không thể quản lý được tài sản của nạn nhân như đang giao hàng ở trên tầng tòa nhà hoặc trong một hoàn cảnh khách quan đặc biệt nào đó mà không thể quản lý được tài sản, mà đối tượng này công nhiên lấy tài sản (lấy tài sản của nạn nhân một cách công khai, không giấu diếm) thì hành vi này sẽ bị xử lý hình sự về tội "Công nhiên chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại Điều 172 Bộ luật Hình sự. Với hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng tài sản là nguồn sống chính của nạn nhân hoặc hành vi được xác định là ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội thì hình phạt mà đối diện này phải đối mặt là thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Trường hợp kết quả điều tra, xác minh cho thấy đối tượng không lấy tài sản của nạn nhân một cách công khai mà lợi dụng sơ hở của nạn nhân để lén lút chiếm đoạt tài sản, sau khi nạn nhân phát hiện thì đối tượng đã bỏ chạy cùng với tài sản thì đây là hành vi trộm cắp tài sản. Với tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên thì đối tượng này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự. Trường hợp tài sản bị chiếm đoạt có tổng giá trị dưới 50 đồng nhưng hành vi được xác định là ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự an toàn xã hội hoặc "Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ" thì đối tượng này sẽ phải đối mặt với khung hình phạt là phạt tù từ 02 năm đến 07 năm theo quy định tại điểm e, khoản 2, Điều 173 Bộ luật Hình sự.
"Nếu hành vi chiếm đoạt tài sản không thuộc hai trường hợp trên mà diễn biến hành vi là đối tượng tiếp cận với nạn nhân, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản rồi nhanh chóng tẩu thoát khiến nạn nhân không kịp trở tay thì hành vi này cũng có thể bị xử lý về tội "Cướp giật tài sản" theo quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự", Luật sư Cường cho biết thêm.
Bộ luật Hình sự dành một chương riêng để quy định về "Nhóm các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu tài sản". Trong đó với những diễn biến hành vi khác nhau, phương thức thủ đoạn khác nhau, hoàn cảnh quản lý tài sản của nạn nhân khác nhau... thì có thể sẽ bị xử lý bởi các tội danh khác nhau.
Với những hành vi côn đồ, manh động, coi thường pháp luật, tấn công nạn nhân để chiếm đoạt tài sản thì tội danh sẽ nghiêm trọng, mức hình phạt sẽ nghiêm khắc. Với hành vi lén lút lấy tài sản, không gây nguy hiểm đến tính mạng sức khỏe của nạn nhân thì mức hình phạt sẽ nghiêm khắc hơn. Ngoài ra giá trị của tài sản, đặc điểm của tài sản, ý nghĩa của tài sản đối với nạn nhân cũng là những yếu tố quan trọng để xác định tội danh và mức hình phạt.
TIẾN HƯNG
Nếu chỉ thu hồi tài sản và kỷ luật thì tình hình tham nhũng sẽ càng phức tạp