/ Kết nối
/ Góc nhìn Luật sư về kết luận kiểm tra công tác quản lý và sử dụng đất đai của UBND huyện Thanh Oai

Góc nhìn Luật sư về kết luận kiểm tra công tác quản lý và sử dụng đất đai của UBND huyện Thanh Oai

27/03/2025 09:56 |3 ngày trước

(LSVN) - Cho rằng Kết luận số 06/KL-UBND ngày 22/01/2025 của UBND huyện Thanh Oai về công tác quản lý và sử dụng đất đai chưa minh bạch, rõ ràng, công dân có đơn khiếu nại đến các cơ quan chức năng đề nghị làm rõ và xử lý đúng quy định pháp luật. Từ nội dung vụ việc, Luật sư có góc nhìn khách quan, đa chiều các quy định của pháp luật về vấn đề trên.

Về nguồn gốc đất

Tòa soạn Tạp chí Luật sư Việt Nam nhận được đơn thư của ông Trang Công Vỵ (Sinh năm 1960, trú tại Thôn Ước Lễ, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội) phản ánh về việc, vào ngày 25/01/2025, UBND huyện Thanh Oai ban hành Kết luận số 06/KL-UBND về việc kiểm tra công tác quản lý và sử dụng đất đai đối với hộ gia đình ông Nguyễn Như Ninh và hộ gia đình ông Trang Công Vỵ thuộc khu vực cánh Sau Đồng, thôn Ước Lễ, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội.

Đơn thư của ông Trang Công Vỵ gửi Tạp chí Luật sư Việt Nam.

Đơn thư của ông Trang Công Vỵ gửi Tạp chí Luật sư Việt Nam.

Ông Vỵ cho rằng, nội dung kết luận không đúng sự thật, quá trình kiểm tra, đo đạc không phản ánh đúng thực trạng, quá trình sử dụng đất của gia đình ông, có dấu hiệu của sai phạm, bán đất trái thẩm quyền, lập khống hồ sơ về hiện trạng sử dụng đất đối với gia đình ông Nguyễn Như Ninh. Việc này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông Trang Công Vỵ, gây ảnh hưởng, hoang mang và thiệt hại cho nhà nước.

Theo ông Vỵ cho biết, năm 2002, gia đình ông và gia đình ông Nguyễn Như Ninh mua 1.000m2 đất ao, hồ ở khu vực cánh Sau Đồng, thôn Ước Lễ, với số tiền là 30 triệu đồng của UBND xã Tân Ước và được UBND xã Tân Ước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) tạm thời.

Sau đó, gia đình ông Vỵ đổ đất, san lấp mặt ao hồ (diện tích khoảng 200m2) để trồng hoa màu. Năm 2003, ông Vỵ xây dựng 01 căn nhà cấp 4, lợp mái tôn và các công trình phụ. Do là khu vực ao hồ, có nguy cơ sụt lún, nên gia đình ông Vỵ đã khai hoang, phục hoá, san lấp thêm đất vào xung quanh và sinh sống ổn định đến thời điểm hiện tại (tổng diện tích khoảng 400m2).

Về nguồn gốc đất, theo ông Vỵ, từ trước năm 1980 tới năm 1993, khu vực này là đất thùng, hố, trong đó có một phần diện tích về phía Bắc của thửa đất (1978 - 1979), HTX Nông nghiệp xã Tân Ước có giao cho gia đình ông Ngô Đình Hồ khoảng 180m2 để làm nhà ở. Đến năm 1992, ông Hồ làm đơn xin giao thêm và được HTX Nông nghiệp xã Tân Ước đồng ý giao tiếp cho ông Hồ khoảng 200m2 liền kề với phần diện tích đất trước đó giao năm 1979 về phía Nam. Thời điểm này, HTX Nông nghiệp xã Tân Ước có thu tiền của ông Hồ là 01 triệu đồng. Từ năm 1993 - 2004, trên địa bàn xã Tân Ước có nhiều trường hợp các hộ gia đình tự ý đổ đất san nền lấn chiếm đất công; tập thể giao đất cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái thẩm quyền. Do trên địa bàn xã có một số diện tích đất công tập thể không sử dụng, vì vậy UBND xã Tân Ước báo cáo Đảng uỷ cho phép thu tiền của các hộ đã lấn, chiếm và giao đất cho các hộ có nhu cầu về nhà ở, đồng thời thống nhất giá thu là 30.000 đồng/m2.

Có 02 trường hợp do UBND xã Tân Ước giao trái thẩm quyền năm 2002 là ông Nguyễn Như Ninh và ông Trang Công Vỵ, diện tích giao cho 02 ông là 1.000m2. UBND xã Tân Ước có thu tiền của 02 ông là 30 triệu đồng (theo giá 30.000 đồng/m2), trong đó ông Nguyễn Như Ninh nộp 24 triệu đồng tương ứng 800m2, ông Trang Công Vỵ nộp 06 triệu đồng tương ứng 200m2. Sau đó, UBND xã Tân Ước có lập GCNQSDĐ tạm thời cho ông Ninh và ông Vỵ tại Thửa đất số 58, tờ bản đồ số 06, tỉ lệ 1/2000, thuộc khu vực cánh Sau Đồng, thôn Ước Lễ.

Việc thu số tiền của ông Ninh và ông Vỵ, UBND xã Tân Ước giao cho ông Nguyễn Đăng Hùng khi đó là Trưởng thôn Ước Lễ, là người trực tiếp lập phiếu thu và nhận tiền. Số tiền thu được, thôn Ước Lễ đầu tư vào công trình phúc lợi (xây dựng đường giao thông của thôn, đoạn từ Cống Tây đi quán Thanh Lương).

Về quá trình sử dụng đất, sau khi được giao (khi đó hiện trạng là thùng ao), các gia đình ông Nguyễn Như Ninh và gia đình ông Trang Công Vỵ có đổ đất san lấp mặt bằng vào phần diện tích được giao. Năm 2003, gia đình ông Vỵ xây dựng nhà cấp 4 và mái vẩy có diện tích 64,5m2 sát liền kề với phần diện tích gia đình nhà ông Ngô Đình Hồ.

Về hiện trạng sử dụng đất, phần diện tích của ông Ninh, ông Vỵ đang sử dụng có tổng diện tích là 910m2. Về nguyên nhân số diện tích hiện trạng sử dụng của ông Ninh và ông Vỵ không đúng so với GCNQSDĐ tạm thời (910m2 so với 100m2) là do cán bộ địa chính xã khi vẽ sơ đồ giao đất cho 02 hộ gia đình đã nhầm vị trí cho nên đã kẻ vẽ chồng lấn vào phần diện tích của ông Ngô Đình Hồ được HTX Nông nghiệp xã Tân Ước giao từ năm 1992.

Người dân khiếu nại nội dung kết luận

Cuối năm 2024, UBND xã Tân Ước mời ông Trang Công Vỵ ra trụ sở làm việc về công tác quản lý và sử dụng đất đai đối với gia đình ông Nguyễn Như Ninh và gia đình ông Vỵ. Ngày 22/01/2025, UBND huyện Thanh Oai có Kết luận số: 06/KL-UBND về việc kiểm tra công tác quản lý và sử dụng đất đai đối với gia đình ông Nguyễn Như Ninh và hộ gia đình ông Trang Công Vỵ ở khu vực cánh Sau Đồng, thôn Ước Lễ, xã Tân Ước.

Kết luận số 06/KL-UBND ngày 22/01/2025 của UBND huyện Thanh Oai.

Kết luận số 06/KL-UBND ngày 22/01/2025 của UBND huyện Thanh Oai.

Theo ông Vỵ, tại Kết luận số 06/KL-UBND ngày 22/01/2025 của UBND Huyện Thanh Oai không phản ánh đúng hiện trạng, người sử dụng đất, quá trình xác minh thông tin, đo đạc cũng không đúng. Cụ thể, theo ông Trang Công Vỵ, hiện trạng sử dụng đất chỉ có gia đình ông là người trực tiếp sử dụng hơn 400m2 đất, không liên quan gì đến gia đình ông Ninh. Gia đình ông Ninh được phân ở đâu, sử dụng như thế nào, ranh giới ra làm sao thì gia đình ông hoàn toàn không biết, không có liên quan gì. Gia đình ông đã có hộ khẩu và sinh sống ở xã Tân Ước nhiều năm nên đã bồi đắp và sử dụng khoảng 400m2 từ năm 2002 đến nay. Gia đình ông Ninh hoàn toàn không tham gia bồi đắp, sử dụng trên mảnh đất đó. Vì vậy, đây là đất riêng của ông, không liên quan đến gia đình nhà ông Ninh. Kết luận số 06/KL-UBND cho rằng, gia đình ông Vỵ và ông Ninh đang cùng sử dụng mảnh đất đó là không đúng thực tế, tự áp đặt thông tin.

Thứ hai, tại Kết luận số 06/KL-UBND cho rằng, “thời điểm từ năm 2002 UBND xã Tân Ước giao đất không đúng thẩm quyền”, tuy nhiên không chỉ ra việc giao đất không thẩm quyền như nào, sai phạm gì trong quá trình cấp GCNQSDĐ, việc xử lý sai phạm này như thế nào? Thực tế cũng không hề có bất cứ tài liệu, biên bản nào về việc giao đất cho gia đình ông Nguyễn Như Ninh. Nên gia đình ông Nguyễn Như Ninh không hề sử dụng đất từ năm 2002 cho đến nay.

Thứ ba, việc đo đạc kiểm tra trong Kết luận số 06/KL-UBND cũng không phản ánh đúng hiện trạng thực tế diện tích, vị trí đất của gia đình ông Vỵ. Nội dung về việc kiểm tra hiện trường không xác định rõ mốc giới, tứ cận giữa mảnh đất của gia đình ông và các mảnh đất xung quanh, có việc áp đặt diện tích đo đạc lên diện tích quản lý, sử dụng thực tế của gia đình ông. Quá trình đo đạc, kiểm tra hiện trạng cũng không mời các gia đình sử dụng đất “thực tế” chứng kiến, xác nhận các thông tin, mốc giới, ranh giới sử dụng đất. Điều này cho thấy, thông tin kiểm tra hiện trạng, ranh giới đất phản ánh không đúng sự thật khách quan, không phản ánh đúng thực trạng sử dụng đất.

Ông Trang Công Vỵ khẳng định thửa đất là do mình san lấp mặt ao hồ, khai hoang, phục háo.

Ông Trang Công Vỵ khẳng định thửa đất là do mình san lấp mặt ao hồ, khai hoang, phục háo.

Thứ tư, gia đình ông Nguyễn Như Ninh không hề được giao đất, cũng không sử dụng thực tế, cũng không hề có bất cứ thỏa thuận nào với gia đình ông Vỵ về việc sử dụng đất chung. Việc mua đất của 02 gia đình là riêng biệt, không liên quan gì nhau, quá trình mua đất, UBND xã ghi chung phiếu thu để thuận tiện nộp tiền, chứ không phải là hợp đồng (văn bản) mua chung đất, nên khi mua xong, gia đình ông Vỵ chủ động san lấp, sử dụng riêng biệt, không liên quan gì gia đình ông Ninh. Ngoài phần diện tích đất nhà ông sử dụng khoảng 400m2 đất, bên cạnh là đất ao của hợp tác xã, gia đình ông Ninh chưa bao giờ quản lý, sử dụng đất. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do, mục đích gì mà trong Kết luận số 06/KL-UBND lại đưa thông tin gia đình ông Nguyễn Như Ninh sử dụng đất “chung” với gia đình ông từ năm 2002 cho đến nay? Ông Vỵ được biết, nếu không có căn cứ thực tế việc giao đất, chưa sử dụng, không chứng minh được thực tế quán lý, sử dụng đất thì gia đình ông Ninh hoàn toàn không đủ điều kiện để được công nhận, cấp GCNQSDĐ theo Luật đất đai năm 2024 (cụ thể không chứng minh được việc sử dụng đất trước ngày 01/07/2014). Vì thế, việc lập hồ sơ, đưa thông tin gia đình ông Nguyễn Như Ninh có sử dụng đất là không đúng sự thật, có dấu hiệu của việc lập “khống” thông tin đất đai?

Thứ năm, không làm rõ lý việc đồng chí cán bộ địa chính UBND xã Tân Ước khi lập bản đồ địa chính (tự vẽ bằng tay), không thông qua quy trình, không tuân thủ quy định nhà nước về đo đạc, lập hồ sơ địa chính, không có xác nhận ranh giới của các hộ dân, không công khai việc đo đạc này? Một tài liệu viết tay, tự lập, không có quy trình, không tuân thủ pháp luật lại được cán bộ kiểm tra đưa vào hồ sơ, coi như tài liệu hợp pháp để làm căn cứ xác định quá trình sử dụng đất trong Kết luận số 06/KL-UBND?

Thứ sáu, trong Kết luận số 06/KL-UBND có đề cập đến hiện trạng trước và hiện tại của thửa đất. Như vậy, ông và gia đình có công sức xây dựng, tôn tạo thửa đất từ thùng ao trũng lên đến thửa đất như hiện nay. Theo nguyên tắc sử dụng đất công ích, cần xem xét lại hiện trạng thửa đất để tính phần công sức xây dựng, tôn tạo của ông và gia đình. Nếu căn cứ theo Luật Đất đai 2024 về xác định nguồn gốc, quá trình sử dụng từ trước 01/7/2024 hoàn toàn có đủ căn cứ công nhận quyền sử dụng đất cho toàn bộ phần diện tích đất gia đình ông thực tế đang sử dụng.

Thứ bảy, khi ban hành Kết luận số 06/KL-UBND kí ngày 21/01/2025, nhưng đến ngày 22/02/2025, gia đình ông mới nhận được thông tin qua tin nhắn zalo thông báo của ông Minh - Chủ tịch xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội. Gia đình ông hoàn toàn không nhận được văn bản chính thức để bày tỏ quan điểm, khiếu nại của mình.

Liên quan đến nội dung trên, sau khi xem xét các vấn đề như: Việc giao đất của UBND xã Tân Ước, nguồn gốc đất, việc thu tiền đất của UBND xã Tân Ước, hiện trạng và quá trình sử dụng đất,… ông Nguyễn Trong Khiển, Phó Chủ tịch UBND huyện Thanh Oai kết luận rằng: Hộ gia đình ông Nguyễn Như Ninh và ông Trang Công Vỵ có cùng địa chỉ thôn thôn Ước Lễ, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội đang sử dụng đất tại thửa đất số 58, tờ bản đố số 06, tỉ lệ 1/2000, khu vực cánh Sau Đồng, thôn Ước Lễ, xã Tân Ước có nguồn gốc đất là đất được giao không đúng thẩm quyền. Thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 140 Luật Đất Đai năm 2024. UBND huyện chỉ đạo giao Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện; Văn phòng ĐKĐĐ Hà Nội - Chi nhánh huyện Thanh Oai; UBND xã Tân Ước, trên cơ sở quy định của Luật Đất Đai năm 2024 và các văn bản quy định của pháp luật có liên quan, hoàn thiện hồ sơ để trình cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

Góc nhìn Luật sư từ nội dung vụ việc

Liên quan đến vấn đề trên, Luật sư Nguyễn Ngọc Hùng, Trưởng Văn phòng luật sư Kết Nối thuộc Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết, đối với phần diện tích đất được giao không đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 2, Điều 140 Luật Đất đai 2024 về điều kiện cấp GCNQSDĐ đối với đất được giao không đúng thẩm quyền cho hộ gia đình, cá nhân tại thời điểm được giao hoặc sử dụng đất do mua, nhận thanh lý, hóa giá, phân phối nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất không đúng quy định của pháp luật được xác định như sau: “Trường hợp đất đã được sử dụng ổn định từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch chung hoặc quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch nông thôn thì được cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định tại khoản 3 và khoản 6 Điều 138 của Luật này”.

Đối với đất đã được sử dụng ổn định từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 sẽ được cấp giấy chứng nhận nếu: Được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp; phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch chung hoặc quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch nông thôn. Như vậy, tùy thuộc vào quy hoạch sử dụng đất của địa phương để xác định nhà ông Trang Công Vỵ có thuộc trường hợp được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không.

Về diện tích đất được cấp GCNQSDĐ, Luật sư Nguyễn Ngọc Hùng cho biết: “Theo quy định tại khoản 3 Điều 138 Luật Đất đai quy định. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2014, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất như sau: (a) Đối với thửa đất có nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống nếu diện tích thửa đất bằng hoặc lớn hơn hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 195 và khoản 2 Điều 196 của Luật này thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức giao đất ở; trường hợp diện tích đất đã xây dựng nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức giao đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống đó; (b) Đối với thửa đất có nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống nếu diện tích thửa đất nhỏ hơn hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 195 và khoản 2 Điều 196 của Luật này thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở”.

Từ đó, diện tích đất được cấp GCNQSDĐ đối với đất thửa đất có nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống: Trường hợp (1) Diện tích thửa đất lớn hơn hoặc bằng hạn mức giao đất ở: Diện tích đất được công nhận bằng hạn mức giao đất ở; Trường hợp (2) Diện tích đất đã xây dựng nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức giao đất ở: Công nhận diện tích theo diện tích thực tế đã xây dựng; Trường hợp (3) Diện tích thửa đất thấp hơn hạn mức giao đất ở: Công nhận toàn bộ diện tích thửa đất.

Theo ông Nguyễn Đức Tâm, thôn Ước Lễ, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, Hà Nội cho biết: “Ông Vỵ về đây từ năm 1984. Ngày trước, ông Vỵ và ông Ninh mua ở đây 1.000 m2, phần của ông Vỵ thì đắp sớm đến nay hiện trạng thì không rõ, còn sau năm 2000 ông Ninh đắp thì UBND xã không cho đắp,…”.

Theo ông Nguyễn Đức Tâm, thôn Ước Lễ, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, Hà Nội cho biết: “Ông Vỵ về đây từ năm 1984. Ngày trước, ông Vỵ và ông Ninh mua ở đây 1.000 m2, phần của ông Vỵ thì đắp sớm đến nay hiện trạng thì không rõ, còn sau năm 2000 ông Ninh đắp thì UBND xã không cho đắp,…”.

Về vấn đề bồi thường trong trường hợp bị thu hồi đất, theo Luật sư Nguyễn Ngọc Hùng: Tại khoản 3, Điều 5 của Nghị định 88/2024/NĐ-CP, đất giao không đúng thẩm quyền vẫn được bồi thường khi bị nhà nước thu hồi nếu thuộc một trong hai trường hợp: Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được giao không đúng thẩm quyền ổn định trước ngày 1/7/2014; Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được giao không đúng thẩm quyền ổn định từ ngày 01/7/2014 đến trước ngày 1/8/2024, với điều kiện đã nộp tiền sử dụng đất đầy đủ.

Từ đó có thể thấy, nhà ông Trang Công Vỵ thuộc trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được giao không đúng thẩm quyền ổn định trước ngày 01/7/2014 nên sẽ được bồi thường nếu bị thu hồi đất.

Đối với đất sử dụng ổn định từ ngày 15/10/1993 đến trước 01/7/2004 thì việc bồi thường cụ thể được quy định tại các Điều 8, Điều 10 của Nghị định 88/2024/NĐ-CP: (a) Trường hợp thu hồi toàn bộ hoặc một phần thửa đất có nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống nếu diện tích thu hồi của thửa đất bằng hoặc lớn hơn hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 195 và khoản 2 Điều 196 của Luật Đất đai thì được bồi thường về đất ở bằng hạn mức giao đất ở. Đối với diện tích đất đã xây dựng nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức giao đất ở thì được bồi thường về đất ở đối với diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống đó; (b) Trường hợp thu hồi toàn bộ hoặc một phần thửa đất có nhà ở, nhà ở và công trình phục vụ đời sống nếu diện tích thu hồi của thửa đất nhỏ hơn hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 195 và khoản 2 Điều 196 của Luật Đất đai thì được bồi thường về đất ở đối với toàn bộ diện tích đất thu hồi”.

Từ đó có thể thấy, các trường hợp bồi thường cụ thể như sau: Thu hồi toàn bộ hoặc một phần đất với diện tích lớn hơn hoặc bằng hạn mức giao đất ở: Được bồi thường bằng hạn mức giao đất ở; Phần đất xây dựng lớn hơn hạn mức giao đất ở: Được bồi thường theo diện tích thực tế đã xây dựng; Diện tích thu hồi thấp hơn hạn mức giao đất ở: Được bồi thường toàn bộ diện tích thu hồi.

Ông Đặng Xuân Hiệp, thôn Ước Lễ, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, Hà Nội cho biết: “Anh Vỵ và anh Ninh mua giấy tờ viết tay không thì tôi không biết, nhưng tôi biết Anh Vỵ là anh lấp, cái đó là chính xác luôn, còn cái anh Ninh kia ở đâu tôi không biết, không có hộ khẩu ở đây”.

Ông Đặng Xuân Hiệp, thôn Ước Lễ, xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, Hà Nội cho biết: “Anh Vỵ và anh Ninh mua giấy tờ viết tay không thì tôi không biết, nhưng tôi biết Anh Vỵ là anh lấp, cái đó là chính xác luôn, còn cái anh Ninh kia ở đâu tôi không biết, không có hộ khẩu ở đây”.

Ngoài ra, đối với phần diện tích đất lấn chiếm, theo quy định khoản 3, Điều 139 Luật Đất đai 2024 về giải quyết đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 01/7/2014: (3) Trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do lấn đất, chiếm đất không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này và trường hợp sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất thì xử lý như sau: (a) Trường hợp người đang sử dụng đất ổn định, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch chung hoặc quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch nông thôn thì được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; (b) Trường hợp không thuộc quy định tại điểm a khoản này thì người đang sử dụng đất được tạm thời sử dụng cho đến khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng phải giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất và phải kê khai đăng ký đất đai theo quy định”.

Như vậy, phần đất lấn chiếm của gia đình ông Trang Công Vỵ được cấp sổ hay bị thu hồi sẽ tùy thuộc vào quy hoạch sử dụng đất của địa phương.

Về vấn đề bồi thường trong trường hợp bị thu hồi đất, theo Luật sư Nguyễn Ngọc Hùng, tại quy định Điều 9 Nghị định 88/2024/NĐ-CP về Bồi thường về đất đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất làm nhà ở có vi phạm pháp luật về đất đai trước ngày 01/7/2014: “(2) Trường hợp thửa đất có nhà ở nếu đã sử dụng đất ổn định từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2014 thì diện tích đất được bồi thường bằng diện tích thực tế bị thu hồi nhưng không vượt quá hạn mức giao đất ở tại địa phương”.

Tiếp tục yêu cầu làm rõ...

Liên quan đến vấn đề trên, vào ngày 13/3/2025, UBND huyện Thanh Oai ra Văn bản số 582/UBND-TTr về việc xử lý đơn khiếu nại của công dân do đích thân Ông Nguyễn Trong Khiển, Phó Chủ tịch huyện Thanh Oai ký.

Theo văn bản thì ngày 27/02/2025, sau khi nhận được đơn khiếu nại Kết luận số 06/KL- UBND ngày 25/01/2025, UBND huyện Thanh Oai đã giao cho Thanh tra huyện rà soát, xem xét nội dung đơn khiếu nại để tham mưu UBND huyện giải quyết theo quy định.

Văn bản số 582/UBND-TTr Về việc xử lý đơn khiếu nại của ông Trang Công Vỵ.

Văn bản số 582/UBND-TTr Về việc xử lý đơn khiếu nại của ông Trang Công Vỵ.

Ngày 05/3/2025, Thanh tra huyện Thanh Oai đã làm việc với công dân, kết quả cho thấy: Tại buổi làm việc, người khiếu nại không cung cấp được giấy tờ, hồ sơ, tài liệu có liên quan đến nội dung khiếu nại. Ngoài ra, người khiếu nại không có căn cứ cho rằng có hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm hại trực tiếp đến quyền lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.

Căn cứ theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 6 Thông tư số 05/2021 TT- TTCP ngày 01/10/2021 của Thanh tra Chính phủ, thì đơn khiếu nại của ông Trang Công Vỵ không đủ điều kiện xử lý.

Cho rằng, văn bản số 582/UBND-TTr của UBND huyện Thanh Oai chỉ dựa duy nhất bản tiếp nhận ý kiến lập ngày 05/03/2025 về việc bổ sung tài liệu chỉ để làm rõ hơn công sức san lấp đất của gia đình ông để làm căn cứ không thụ lý giải quyết khiếu nại, đây chỉ là 01 phần rất nhỏ trong nội dung khiếu nại của gia đình ông. Ông Vỵ cho rằng, quy trình, quá trình giải quyết như vậy quá vội vàng, áp đặt, không muốn thụ lý giải quyết đơn của gia đình ông, có rất nhiều dấu hiệu, căn cứ vi phạm pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại hành chính.

Ông Vỵ tiếp tục yêu cầu làm rõ các nội dung đã nêu gồm: Nguồn gốc tài sản, quá trình sử dụng tài sản; việc sử dụng đất thực tế của gia đinh ông Nguyễn Như Ninh; hiện trạng sử dụng đất theo Kết luận số 06/KL-UBND; làm rõ tại sao Kết luận số 06/KL-UBND lại nói gia đình ông Vỵ và gia đình ông Ninh sử dụng chung đất?; Làm rõ trong Kết luận số 06/KL-UBND lại sử dụng tài liệu do cán bộ địa chính lập bằng tay, không đúng quy đinh pháp luật; xem xét về việc gửi thông báo, kết luận qua zalo có đúng pháp luật và yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông Vỵ,...

PV

Các tin khác