/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về phòng chống tham nhũng

Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về phòng chống tham nhũng

14/06/2021 02:43 |

(LSVN) - Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt coi trọng công tác phòng chống tham nhũng (PCTN), coi đây là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, của tất cả các cơ quan Nhà nước và của mọi công dân.

Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng, Phó Giám đốc Công Luật TNHH TGS, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội.

Trong thời gian qua, với quyết tâm chính trị rất cao, công tác xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách và các quy định pháp luật liên quan đến PCTN đã được đẩy mạnh và có những bước tiến vượt bậc, tạo nên những cơ chế và hành lang pháp lý PCTN tương đối chặt chẽ và hiệu quả. Đồng thời, với những sự quan tâm, chỉ đạo rất quyết liệt, mạnh mẽ của Đảng, sự vào cuộc tích cực và hiệu quả của các cơ quan Nhà nước thì công tác PCTN đã có những giải pháp đột phá, đi vào chiều sâu, đạt được những kết quả chưa từng có, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. “Công tác kiểm tra, giám sát và đấu tranh PCTN, lãng phí, tiêu cực được triển khai quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá và đạt những kết quả cụ thể, rõ rệt. Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng được phát hiện, điều tra, khởi tố, xét xử nghiêm minh, tạo sức răn đe, cảnh tỉnh, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao và đồng tình ủng hộ. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn” [1]. Qua đó, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Tuy nhiên thực tế, “tham nhũng trên nhiều lĩnh vực còn nghiêm trọng, phức tạp, với biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta” [2]. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của công tác PCTN, trong đó có các nguyên nhân cơ bản là một số cơ chế, chính sách và quy định pháp luật còn những “lỗ hổng”, thiếu chặt chẽ, chưa phù hợp với thực tiễn; việc thực thi pháp luật có lúc, có nơi chưa nghiêm. Công tác tổ chức, cán bộ, kiểm soát, công khai tài sản, thu nhập còn nhiều hạn chế, vướng mắc; công tác phát hiện, xử lý tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu... Điều đó đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các cơ chế, chính sách và quy định pháp luật, để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của công tác PCTN mà trọng tâm là các vấn đề như sau:

1. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ, gắn liên với đẩy mạnh quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Công tác cán bộ luôn giữ vai trò then chốt trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, cũng như góp phần quan trọng vào sự thành công của cuộc đấu tranh PCTN, tiêu cực. Trước tiên, cần thực hiện nghiêm và hiệu quả các quyết định, chỉ thị, chính sách và đường lối của Đảng về công tác cán bộ, chú trọng đến việc “rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy định, quy chế về công tác cán bộ. Quy định cụ thể trách nhiệm của tập thể, cá nhân; quy trình, thủ tục, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch trong từng khâu về công tác cán bộ” đã được nêu tại Quyết định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Hoàn thiện các cơ chế và quy định của pháp luật về tuyển trọn, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức liêm chính, có tài, có đạo đức và bản lĩnh chính trị vững vàng.

Mặt khác, phải có cơ chế và quy định bảo vệ, khuyến khích những người dám nghĩ, dám làm, bứt phá, đổi mới, sáng tạo vì sự nghiệp chung, không ngại va chạm, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Đảng phải xây dựng được các quy định, quy chế nội bộ, Nhà nước phải hoàn thiện pháp luật về tiêu chuẩn, cách thức đánh giá đối với đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện công vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị và sự liêm chính. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, cũng như bộ máy Nhà nước, xử lý nghiêm minh các đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức vi phạm, kịp thời loại bỏ những phần tử cơ hội, vụ lợi, thoái hóa, biến chất.

Quy định rõ và cụ thể quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người đứng đầu trong kiểm tra, phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí và bảo vệ người tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Nghiêm khắc truy cứu trách nhiệm của tổ chức Đảng các cấp, lãnh đạo, người đứng đầu các địa phương, cơ quan, tổ chức, đơn vị, khi để người dưới quyền tham nhũng.

Đồng thời, đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao nhận thức về tác hại của tham nhũng, biết trọng danh dự, giữ gìn phẩm chất, xây dựng văn hóa “cầm kiệm liên chính”, tự giác “nói không” với tham nhũng trong cán bộ, đảng viên. Từ đó, giúp cho họ tự có sức “đề kháng” chống lại các cám dỗ không trong sáng, ngăn chặn được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong Đảng và Nhà nước về PCTN.

2. Bên cạnh việc đề cao  nghĩa vụ và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thì cũng cần phải đẩy mạnh cải cách tiền lương, thu nhập, và các chính sách chăm lo cuộc sống cho họ. Chỉ khi thoát khỏi nỗi lo “cơm áo gạo tiền” thì mới có thể giúp đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức toàn tâm, toàn ý cho công việc, không phải tìm cách trục lợi cá nhân trong quá trình thực thi công vụ, có thể “nói không” với tham nhũng, tiêu cực. Các chính sách, quy định về tiên lương, thu nhập và các chế độ đãi ngộ, khen thưưởng phải đảm bảo được tính công bằng, công khai và dân chủ, tương xứng, phù hợp với trách nhiệm, công sức và trí tuệ đóng góp của mỗi người, tạo động lực phấn đấu và cống hiến trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

3. Tham nhũng là sự vụ lợi bằng việc lợi dụng quyền lực, là một trong những căn bệnh gắn liền với quyền lực Nhà nước, cũng như sự “tha hóa” của một bộ phận những người có chức vụ, quyền hạn. Khi chức vụ, quyền hạn càng cao, vị trí càng lớn, quyền lực càng nhiều mà không có cơ chế kiểm soát, giám sát hiệu quả thì những người đó rất dễ lạm quyền, lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để vụ lợi, vì lợi ích cá nhân mà bất chấp luật pháp, tham ô, tham nhũng, suy thoái, biến chất. Do đó, để PCTN hiệu quả thì phải xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn, theo nguyên tắc mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng các cơ chế và các quy định chặt chẽ, có hệ thống và có hiệu lực cao. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh phải “nhốt quyền lực vào lồng cơ chế” khi nói về sự cấp thiết phải có cơ chế kiểm soát quyền lực, bảo đảm quyền lực được vận hành đúng đắn, không bị "tha hoá". Tuy nhiên hiện nay, các cơ chế kiểm soát quyền lực, công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa hoàn thiện, thiếu tính hệ thống, còn nhiều “kẽ hở”, tạo điều kiện cho tham nhũng.

Vì vậy, cần phải xây dựng, ban hành và thực thi các cơ chế và các quy định về kiểm soát quyền lực nói chung và kiểm soát quyền lực để PCTN nói riêng. Mọi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn đều phải được kiểm soát chặt chẽ từ bên trong (kiểm soát lẫn nhau) và kiểm soát từ bên ngoài bằng các cơ chế và quy định rõ ràng và cụ thể; quyền lực phải được ràng buộc chặt chẽ với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu, trách nhiệm đến đó; phải có cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đủ mạnh để có thể kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm, lợi dụng, lạm dụng quyền lực để tham ô, tham nhũng, lãng phí.  

Ngoài ra, các quy định của pháp luật và của Đảng cũng phải đề cao hơn nữa trách nhiệm cá nhân, phân định rõ trách nhiệm của tổ chức, tập thể và cá nhân trong Đảng và bộ máy Nhà nước, đặc biệt là vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu. Hoàn thiện hơn nữa các quy định về trách nhiệm giải trình của những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động công vụ.

Đồng thời, phải tăng cường các cơ chế và hành lang pháp lý đầy đủ và hiệu quả cho việc giám sát việc thực thi quyền lực thông qua công tác giám sát, kiểm tra của Đảng; thanh tra, kiểm toán của Nhà nước; giám sát của cơ quan dân cử và đại biểu dân cử, của cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, của nhân dân và xã hội.

Tuy nhiên, cũng phải đặc biệt lưu ý là các cơ chế và quy định về kiểm soát quyền lực nói chung và kiểm soát quyền lực về PCTN nói riêng phải phù hợp với thể chế chính trị của nước ta, đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất và toàn diện của Đảng, những yêu cầu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cũng như những đòi hỏi khách quan của thực tiễn.

4. Đấu tranh PCTN đòi hỏi phải sử dụng rất nhiều công cụ và biện pháp khác nhau, trong đó pháp luật luôn là công cụ và biện pháp hiệu quả nhất. Nếu không có các quy định pháp luật thì sẽ không có các cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các hoạt động phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng. Tuy nhiên, nếu hệ thống pháp luật không đầy đủ, chặt chẽ, chồng chéo, mâu thuẫn hoặc xa rời thực tế sẽ cản trở, khiến cho hoạt động PCTN không hiệu quả, thậm chí tạo “sơ hở” cho tham nhũng phát sinh và tồn tại.

Do vậy, phải đẩy mạnh nữa công tác xây dựng, hoàn thiện các quy định về quản lý kinh tế - xã hội nói chung và lĩnh vực PCTN nói riêng, để tạo ra những khung pháp lý chặt chẽ, đầy đủ và thống nhất trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng (quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư công, xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản, ngân hàng, chính sách xã hội...). Từ đó, xây dựng được những hàng rào pháp lý đủ vững chắc, không có “kẽ hở”, và “khoảng trống” cho tham nhũng có thể phát sinh, để không ai “có thể tham nhũng”. Muốn vậy, toàn bộ hệ thống pháp luật luật trên nhiều lĩnh vực phải có những bước chuyển mình mang tính đột phá, từ khâu xây dựng cho đến quá trình thực thi pháp luật. Cụ thể:

Thứ nhất, phải có cơ chế, quy định chặt chẽ việc xây dựng chính sách, pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội để phòng ngừa các tác động tiêu cực của "nhóm lợi ích", "sân sau", "tư duy nhiệm kỳ", ngăn chặn nguy cơ nảy sinh tham nhũng trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, cũng làm “méo mó”, giảm hiệu lực và hiệu quả của các chính sách và pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội.

Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội theo hướng tăng cường hơn nữa tính công khai, minh bạch, công bằng và bình đẳng, khắc phục triệt để nhất những “sơ hở”, khiếm khuyết có thể xảy ra tham nhũng như: Xóa bỏ cơ chế và tình trạng “xin – cho”, hoàn thiện các quy định về quản lý tài sản công, đấu thầu các dự án, đấu giá quyền sử dụng đất và tài sản công theo hướng minh bạch, công khai, chặt chẽ và đồng bộ, bảo đảm môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng và công bằng, lường trước và “bịt kín” tất cả các “lỗ hổng”, khắc phục những hạn chế, để triệt tiêu khả năng phát sinh tham nhũng.

Thứ ba, đẩy nhanh công tác xây dựng Chính phủ điện tử, cải cách hành chính, công khai minh bạch trong hành chính công, có các cơ chế, quy định phù hợp để ngăn chặn có hiệu quả tệ "tham nhũng vặt", “sách nhiễu”, “vòi vĩnh” trong việc thực hiện các thủ tục hành chính.  

Thứ tư, tăng nặng các chế tài pháp lý, từ xử lý kỷ luật, xử lý hành chính cho đến xử lý hình sự, bảo đảm tính nghiêm khắc và đủ sức răn đe hơn nữa đối với các vi phạm.

Thứ năm, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng, để có thể truy tìm, thu hồi triệt để các tài sản tham nhũng, phòng chống, ngăn chặn có hiệu quả các thủ đoạn tẩu tán, che dấu, “hợp pháp hóa” tài sản tham nhũng, giảm thiểu các thiệt hại cho Nhà nước và xã hội, cũng như tăng tính răn đe, phòng ngừa vi phạm. Điều đó yêu cầu phải sớm xây dựng, sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm toán, tố tụng hình sự, thi hành án dân sự và các quy định pháp luật liên quan về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và biện pháp thu hồi tài sản tham nhũng. Theo đó, bổ sung cho thanh tra viên, kiểm toán viên thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn việc tẩu tán tài sản (kê biên, phong tỏa…) khi phát hiện có dấu hiệu tham nhũng. Đồng thời, để tăng cường nhận thức và tinh thân trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền trong việc thu hồi tài sản tham nhũng thì pháp luật cũng cần có những quy định rõ về quyền hạn, nghĩa vụ và xử lý trách nhiệm của từng cá nhân, cơ quan đó trong việc thực hiện nhiệm vụ truy tìm, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản… trong quá trình thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Mặt khác, phải tăng cường hợp tác quốc tế, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước, để có thể phát hiện, xử lý tài sản tham nhũng bị tẩu tán ra nước ngoài. Đồng thời, xây dựng những chế định pháp lý phù hợp, để có thể khuyến khích người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường, giao nộp tài sản tham nhũng.

Bên cạnh đó, phải hoàn thiện các quy định về việc minh bạch thu nhập, tài sản. phòng chống rửa tiền, thanh toán không dùng tiền mặt, kiểm soát chặt chẽ các giao dịch về đất đai, bất động sản, góp vốn, mua bán cổ phần và các tài sản có giá trị khác, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia thống nhất về quản lý đất đai, bất động sản..., để ngăn ngừa việc che giấu, hợp pháp hóa, hoặc tẩu tán tài sản tham nhũng, tạo thuận lợi cho công tác thu hồi tài sản tham nhũng.

5. Công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán phải được tiến hành thường xuyên và liên tục, nhất là trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực; đảm bảo tính nghiêm minh, khách quan trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các vụ án liên quan đến tham nhũng, tiêu cực. Đảm bảo các hành vi tham nhũng, tiêu cực phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý từ sớm, không để tình trạng “bỏ lọt vi phạm”, hoặc vi phạm kéo dài, chậm bị xử lý, cũng như bao che, dung túng cho vi phạm. Mọi cán bộ, đảng viên vi phạm phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh, minh bạch, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, để không ai “dám tham nhũng”.

Mặt khác, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan có chức năng PCTN. Pháp luật phải mở rộng hơn nữa quyền hạn, trao cho các cơ quan PCTN những quyền năng pháp lý đủ mạnh để đấu tranh PCTN một cách hiệu quả nhất. Phải lựa chọn và rèn luyện được đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác PCTN có phẩm chất đạo đức, vững về chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh vững vàng, trong sáng và liêm chính, có thể chiến thắng bất kỳ cám dỗ hoặc sức ép không trong sáng nào. Bên cạnh đó, cũng cần có những cơ chế và quy định để bảo vệ các cán bộ, công chức làm công tác PCTN, để họ “không phải” và “không sợ hãi” bất cứ sức ép hoặc sự đe dọa trái pháp luật nào, giúp cho họ có thể yên tâm, vững vàng khi thực hiện công việc của mình. Đồng thời cũng phải PCTN, tiêu cực, sai phạm ngay trong các cơ quan PCTN. Điều đó có nghĩa là phải có cơ chế, quy định pháp lý đồng bộ và hiệu quả để kiểm soát, giám sát việc thực hiện “quyền lực” của các cơ quan PCTN. Pháp luật cũng phải quy định cụ thể về trách nhiệm pháp lý của các cá nhân, tập thể và cơ quan chuyên trách PCTN trong việc không thực hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng quyền hạn và nhiệm vụ của mình, kiêm quyết xử lý nghiêm, loại bỏ những cán bộ, công chức “tha hóa”, tham nhũng, tiêu cực.

6. Đảm bảo tốt hơn tính công khai, minh bạch và dân chủ trong hoạt động thi hành công vụ, cũng như mở rộng quyền và khả năng tiếp cận thông tin, giám sát của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức Đảng. Thực hiện hiệu quả hơn nữa công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về tham nhũng, có những quy định bảo vệ tốt người tố cáo tham nhũng, tiêu cực, kịp thời khen thưởng, vinh danh, những người dũng cảm, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực.

7. Hoàn thiện hơn nữa các quy định của Luật Báo chí, để phát huy tối đa vai trò to lớn của các cơ quan báo chí trong việc giám sát, phản biện xã hội, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, cũng như tuyên truyền, phổ biến, đưa các quy định, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến PCTN đến các tầng lớp nhân dân, nêu gương những cán bộ, đảng viên và người dân có thành tích tốt trong PCTN, cũng như phản bác các luận điêu sai trái của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Qua đó, nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân, huy động được tổng lực trí tuệ và sức mạnh, sự tham gia của toàn xã hội vào công tác PCTN, tiêu cực.

8. Phải chú trọng đến việc tổng kết thực tiễn, để có được những đánh giá khách quan và toàn diện về thực trạng tham nhũng. Từ đó, chắt lọc, rút ra những bài học, kinh nghiệm cần thiết; có thể nhận diện được chính xác và đầy đủ các hành vi, thủ đoạn tham nhũng, cùng những nguyên nhân và xu hướng phát triển của chúng; phát hiện ra những “sơ hở”, hạn chế và bất cập trong cơ chế, chính sách và pháp luật và quá trình thực thi chúng trong thực tiễn. Qua đó, kịp thời các giải pháp khắc phục, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý phù hợp, hiệu quả nhất, tránh sự lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn của các cơ chế và quy định trong PCTN.

Mặt khác, cần đẩy mạnh các hình thức hợp tác quốc tế, nghiên cứu, học tập kinh nghiệm nước ngoài và kinh nghiệm quốc tế về PCTN. Từ đó, chúng ta cũng có thể “đi tắt đón đầu”, chắt lọc và tiếp thu được nhiều bài học, kinh nghiệm và các cơ chế, chính sách, quy định hay, tiến bộ của các nước trong công tác PCTN, có sự vận dụng phù hợp, sáng tạo vào thực tiễn trong nước, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác PCTN.

PCTN là cuộc đấu tranh vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, phải được thực hiện quyết liệt, thường xuyên, kiên trì, liên tục, với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị và xã hội. Kết quả của công cuộc PCTN phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhưng có một yếu tố then chốt, mang tính quyết định, đó là phải xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách và quy định của Đảng và Nhà nước trên nhiều lĩnh vực, từ chính trị cho đến kinh tế - xã hội nói chung và PCTN nói riêng. Chỉ khi xây dựng được một hệ thống cơ chế, chính sách và pháp lý chặt chẽ, đầy đủ và đồng bộ, khoa học và phù hợp với thực tiễn, cùng với quá trình thực thi chúng một cách khách quan, minh bạch và nghiêm minh, trên nguyên tắc và mục tiêu bảo đảm "không thể", "không dám", "không muốn", "không cần" tham nhũng, thì công cuộc chống “giặc tham nhũng” mới có thể tiếp tục đạt được những thắng lợi to lớn hơn nữa.

_________________________________

[1] Báo cáo của Ban chấp hành trung ương khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng.

[2] Bài phát biểu của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc, tổng kết công tác PCTN giai đoạn 2013 - 2020.

Thạc sĩ, Luật sư NGUYỄN ĐỨC HÙNG

Phó Giám đốc Công Luật TNHH TGS

Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của doanh nghiệp do dịch bệnh Covid-19

Lê Minh Hoàng