Đặt vấn đề
Trong tiến trình phát triển của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống pháp luật luôn giữ vai trò trụ cột trong quản lý nhà nước và điều tiết các quan hệ xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Từ sau Đổi mới (năm 1986), hệ thống pháp luật kinh tế - thương mại Việt Nam đã từng bước hình thành, bổ sung và hoàn thiện, tạo nền tảng pháp lý cho việc vận hành cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy hội nhập quốc tế và thu hút đầu tư. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng, đặc biệt là dưới tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng kinh tế số, đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với hệ thống pháp luật, đòi hỏi sự cải cách mạnh mẽ cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp.
Ngày 04/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới, trong đó xác định khu vực kinh tế tư nhân là “một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân”. Nghị quyết không chỉ nhấn mạnh vai trò chiến lược của khu vực tư nhân mà còn đề ra các định hướng lớn về thể chế: hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền tự do kinh doanh, bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực, xây dựng môi trường đầu tư – kinh doanh ổn định, minh bạch, hiện đại; đồng thời yêu cầu tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước trong thực thi pháp luật và quản lý kinh tế.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Trong khi đó, thực tiễn thi hành pháp luật kinh tế, đặc biệt là Luật Thương mại 2005, đã bộc lộ nhiều bất cập: chưa bao quát kịp thời các mô hình kinh doanh mới, thiếu đồng bộ với các FTA thế hệ mới, lúng túng trong điều chỉnh giao dịch trên nền tảng số và còn khoảng cách giữa quy định pháp luật với năng lực thực thi của bộ máy quản lý. Từ thực tế này, yêu cầu đặt ra là cần đánh giá một cách hệ thống các vấn đề pháp lý hiện nay đang cản trở sự phát triển lành mạnh của kinh tế tư nhân, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật kinh tế – thương mại, nhằm thực hiện hiệu quả Nghị quyết 68-NQ/TW.
Bài viết này tập trung phân tích các yêu cầu đặt ra từ Nghị quyết 68-NQ/TW đối với việc hoàn thiện pháp luật thương mại, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành, nhận diện những điểm nghẽn và đề xuất một số định hướng cải cách thể chế nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của khu vực tư nhân, đồng thời tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm và kiểm soát quyền lực trong quản lý nhà nước về kinh tế.
Giải quyết vấn đề
Thực trạng pháp luật thương mại hiện hành và các điểm nghẽn đối với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân
Trong bối cảnh kinh tế số và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Luật Thương mại năm 2005 (LTM 2005) – vốn được ban hành nhằm điều chỉnh các hoạt động thương mại truyền thống – đã bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Thứ nhất, phạm vi điều chỉnh của LTM 2005 chưa bao quát đầy đủ các mô hình kinh doanh mới. Luật chủ yếu thiết kế cho giao dịch truyền thống, chưa có quy định cụ thể đối với thương mại điện tử xuyên biên giới, hợp đồng thông minh và dịch vụ dựa trên nền tảng số. Điều này tạo ra khoảng trống pháp lý, gây khó khăn cho doanh nghiệp tư nhân trong việc triển khai và mở rộng hoạt động kinh doanh trong kỷ nguyên số [1].
Thứ hai, thiếu khung pháp lý cho tài sản số và đổi mới sáng tạo. LTM 2005 chưa có quy định rõ ràng về tài sản số, dữ liệu, và các sản phẩm trí tuệ phi vật thể. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc xác lập quyền sở hữu, góp vốn, và chuyển giao các tài sản này, hạn chế khả năng bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong các giao dịch liên quan đến tài sản số [2].
Thứ ba, hệ thống quy định thuế và thủ tục hành chính còn phân tán, làm tăng chi phí tuân thủ. Doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, phải đối mặt với nhiều thủ tục hành chính phức tạp và chồng chéo trong lĩnh vực thuế, hải quan, và quản lý thị trường. Việc thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước dẫn đến tình trạng kiểm tra, thanh tra trùng lặp, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp [3].
Thứ tư, sự chồng chéo và thiếu đồng bộ giữa LTM 2005 và các luật chuyên ngành như Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, và Bộ luật Dân sự tạo ra sự lúng túng trong việc áp dụng pháp luật, làm tăng chi phí tuân thủ và rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp. Ví dụ, quy định về đấu giá hàng hóa trong LTM 2005 không đồng nhất với Luật Đấu giá tài sản, gây khó khăn trong việc xác định luật áp dụng [4].
Thứ năm, cơ chế giải quyết tranh chấp chưa hiệu quả. LTM 2005 chưa có quy định đầy đủ về cơ chế giải quyết tranh chấp trong các giao dịch thương mại hiện đại, đặc biệt là các giao dịch điện tử và hợp đồng thông minh. Việc thiếu các quy định cụ thể về trọng tài thương mại và tòa án chuyên trách trong lĩnh vực thương mại số khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi khi xảy ra tranh chấp [5].
Ngoài ra, theo phân tích của một số chuyên gia, hiện tượng "thiếu đà thể chế" đang làm cản trở khu vực tư nhân, khi mà chính sách đã có nhưng thiếu các quy định cụ thể để triển khai, ví dụ như hỗ trợ thuế, tín dụng và cải cách thủ tục cấp phép [6].
Những bất cập trên cho thấy sự cần thiết phải sửa đổi và hoàn thiện LTM 2005 để phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế số và hội nhập quốc tế. Việc xây dựng một khung pháp lý hiện đại, đồng bộ và minh bạch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển bền vững trong kỷ nguyên số.
Tác động của Nghị quyết 68-NQ/TW đến yêu cầu hoàn thiện pháp luật thương mại
Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị đặt ra năm trụ cột thể chế để kinh tế tư nhân bứt phá:
- Bảo đảm tuyệt đối quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh;
- Bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội thị trường;
- Cải cách thủ tục hành chính, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm;
- Nuôi dưỡng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, kinh tế số, kinh tế xanh;
- Tăng cường kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh [5].
Những định hướng này đặt ra ba nhóm yêu cầu cải cách đối với Luật Thương mại và các luật liên quan.
Một là, mở rộng phạm vi điều chỉnh theo hướng “thương mại mở”. Nghĩa vụ thiết lập hành lang pháp lý cho giao dịch dữ liệu, tài sản ảo, nền tảng số và dịch vụ xuyên biên giới đi liền cam kết bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bí mật kinh doanh. Đây là cơ sở để doanh nghiệp tư nhân tận dụng ưu đãi từ các FTA, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Hai là, thiết kế cơ chế bảo đảm minh bạch và hậu kiểm. Nghị quyết 68 yêu cầu giảm thiểu thanh tra, kiểm tra chồng chéo; mỗi năm cơ quan quản lý chỉ được kiểm tra một lần nếu doanh nghiệp tuân thủ tốt. Do đó, luật sửa đổi cần quy định nguyên tắc quản lý rủi ro, số hóa toàn bộ quy trình cấp phép và giám sát, đồng thời xác lập trách nhiệm giải trình của cán bộ thi hành.
Ba là, lồng ghép nguyên tắc kinh doanh có trách nhiệm vào hoạt động thương mại. Nội dung về bảo vệ môi trường, lao động, quyền lợi người tiêu dùng phải được cập nhật phù hợp các FTA thế hệ mới (CPTPP, EVFTA). Việc hoàn thiện pháp luật thương mại theo hướng này sẽ giúp doanh nghiệp tư nhân nâng cao năng lực tuân thủ, giảm rủi ro tranh chấp quốc tế.
Tóm lại, Nghị quyết 68-NQ/TW là động lực thể chế quan trọng buộc hệ thống pháp luật thương mại phải hiện đại hóa toàn diện, vừa bảo đảm quyền tự do kinh doanh, vừa thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển bền vững trong kỷ nguyên số.
Kiến nghị, định hướng hoàn thiện pháp luật thương mại
Xây dựng Bộ luật Thương mại hiện đại, thống nhất
Cần rà soát Luật Thương mại 2005 và các luật chuyên ngành để pháp điển hóa thành Bộ luật Thương mại thống nhất, vừa mang tính khung (quy định nguyên tắc, phạm vi, chuẩn mực chung), vừa có các chế định đặc thù cho thương mại số, chuỗi cung ứng thông minh. Cách tiếp cận “luật khung – luật ống” cho phép Chính phủ ban hành nghị định hướng dẫn linh hoạt, bảo đảm tính ổn định mà vẫn thích ứng với công nghệ mới.
Hoàn thiện khung pháp lý cho thương mại số, tài sản số
Bổ sung định nghĩa và chế độ pháp lý đối với dữ liệu, hàng hóa số, tài sản ảo; công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng thông minh và chữ ký số nâng cao.
Xây dựng cơ chế sandbox cho mô hình kinh doanh số (fintech, sharing economy) kèm tiêu chí thoát sandbox khi sản phẩm đạt độ chín thương mại.
Cải cách thủ tục hành chính theo hướng “hậu kiểm số hóa”
Áp dụng quản lý rủi ro, phân luồng doanh nghiệp; thiết lập Cổng dịch vụ công thương mại điện tử một cửa kết nối thuếhải quanquản lý thị trường.
Quy định giới hạn tần suất thanh tra/kiểm tra một lần/năm với doanh nghiệp tuân thủ tốt, trừ trường hợp có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng.
Lồng ghép kinh doanh có trách nhiệm và phát triển bền vững
Nội luật hóa yêu cầu đánh giá vòng đời sản phẩm, báo cáo phát thải, truy xuất nguồn gốc theo EVFTA, CPTPP.
Bổ sung nghĩa vụ doanh nghiệp bảo vệ người tiêu dùng trực tuyến; quy định trách nhiệm nêu giá minh bạch, cơ chế gỡ nội dung vi phạm trên sàn thương mại điện tử.
Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại
Mở rộng thẩm quyền Trọng tài thương mại đối với tranh chấp dữ liệu, hợp đồng thông minh; thừa nhận phán quyết trọng tài nước ngoài nhanh chóng.
Xây dựng toà chuyên trách thương mại số trong hệ thống tòa án để xét xử nhanh, giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp.
Kết luận
Sự ra đời của Nghị quyết 68NQ/TW khẳng định vai trò trụ cột của khu vực kinh tế tư nhân và đặt ra yêu cầu cấp bách phải hiện đại hóa hệ thống pháp luật thương mại. Việc sửa đổi, pháp điển hóa Luật Thương mại, xây dựng hành lang pháp lý cho kinh tế số, áp dụng quản lý hậu kiểm và lồng ghép mục tiêu phát triển bền vững sẽ tạo nền tảng pháp lý vững chắc, minh bạch, thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân bứt phá, đồng thời tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, đóng góp vào mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
[1] Nguyễn Thị Yến, Hồ Thị Duyên, "Pháp luật thương mại Việt Nam: Lịch sử hình thành, phát triển và định hướng hoàn thiện trong kỷ nguyên mới", Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2025, tr. 1-28.
[2] Trần Thị Bảo Ánh, "Hoàn thiện khung pháp lý cho các doanh nghiệp khoa học công nghệ khởi nguồn từ các viện nghiên cứu, trường đại học ở Việt Nam", Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2025, tr. 60-75.
[3] Nguyễn Ngọc Anh, "Pháp luật về quản lý thuế trong thương mại điện tử và giải pháp hoàn thiện phù hợp với kỷ nguyên số", Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2025, tr. 374-385.
[4] "Một số quy định chồng chéo, mâu thuẫn giữa Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005", FDVN, https://fdvn.vn/nhung-diem-mau-thuan-giua-luat-thuong-mai-2005-va-bo-luat-dan-su-2015.
[5] "Một số hạn chế, vướng mắc trong áp dụng Luật Thương mại năm 2005 và kiến nghị hoàn thiện", Tạp chí Tòa án nhân dân, https://tapchitoaan.vn/mot-so-han-che-vuong-mac-trong-ap-dung-luat-thuong-mai-nam-2005-va-kien-nghi-hoan-thien13383.html.
[6] "Bài 2: Tháo gỡ điểm nghẽn – Kinh tế tư nhân đã đủ lực nhưng thiếu đà", Báo Pháp luật Việt Nam, https://baophapluat.vn/bai-2-thao-go-diem-nghen-kinh-te-tu-nhan-da-du-luc-nhung-thieu-da-post548470.html.
[7] Bộ Chính trị, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới.
[8] Nguyễn Quang Tuyến, Pháp luật kinh tế Việt Nam: 80 năm hình thành, phát triển và định hướng hoàn thiện trong kỷ nguyên mới, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2025, tr. 132-164.
[9] Trần Thị Bảo Ánh, Hoàn thiện khung pháp lý cho các doanh nghiệp khoa học công nghệ khởi nguồn từ các viện nghiên cứu, trường đại học, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Trường ĐH Luật Hà Nội, 2025, tr. 60 75.
Tài liệu tham khảo
1. Báo Pháp luật Việt Nam. (2024, 5 tháng 5). Bài 2: Tháo gỡ điểm nghẽn – Kinh tế tư nhân đã đủ lực nhưng thiếu đà. https://baophapluat.vn/bai-2-thao-go-diem-nghen-kinh-te-tu-nhan-da-du-luc-nhung-thieu-da-post548470.html
2. Bộ Chính trị. (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới.
3. FDVN. (n.d.). Một số quy định chồng chéo, mâu thuẫn giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005. https://fdvn.vn/nhung-diem-mau-thuan-giua-luat-thuong-mai-2005-va-bo-luat-dan-su-2015/
4. Nguyễn Ngọc Anh. (2025). Pháp luật về quản lý thuế trong thương mại điện tử và giải pháp hoàn thiện phù hợp với kỷ nguyên số. Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 374–385.
5. Nguyễn Quang Tuyến. (2025). Pháp luật kinh tế Việt Nam: 80 năm hình thành, phát triển và định hướng hoàn thiện trong kỷ nguyên mới. Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 132–164.
6. Nguyễn Thị Yến & Hồ Thị Duyên. (2025). Pháp luật thương mại Việt Nam: Lịch sử hình thành, phát triển và định hướng hoàn thiện trong kỷ nguyên mới. Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 1–28.
7. Tạp chí Tòa án nhân dân. (n.d.). Một số hạn chế, vướng mắc trong áp dụng Luật Thương mại năm 2005 và kiến nghị hoàn thiện. https://tapchitoaan.vn/mot-so-han-che-vuong-mac-trong-ap-dung-luat-thuong-mai-nam-2005-va-kien-nghi-hoan-thien13383.html
8. Trần Thị Bảo Ánh. (2025). Hoàn thiện khung pháp lý cho các doanh nghiệp khoa học công nghệ khởi nguồn từ các viện nghiên cứu, trường đại học ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 60–75.