Hướng tới kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập ngành Kiểm sát nhân dân (1960-2020): Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa - Nhìn từ góc độ luật sư

02/05/2020 18:33 | 3 năm trước

(LSO) - Bên cạnh những kết quả có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức và hoạt động của ngành KSND trong 60 năm qua, nhìn từ góc độ của luật sư tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự thời gian qua, chúng tôi nhận thấy dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Viện trưởng VKSND tối cao, toàn ngành Kiểm sát đã nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác tranh tụng, đặc biệt là hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

Từ vị thế tranh cãi đến định hình chủ trương, thiết lập nguyên tắc cơ bản và pháp luật thực định về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng hình sự

Sáu mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 20 ngày 26/7/1960 công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân dân (VKSND), có thể nói một trong những thành quả và dấu ấn đặc biệt trong tổ chức và hoạt động của ngành KSND là kết quả thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp theo Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND quy định. Thông qua thực hiện các chức năng cơ bản này, ngành KSND đã thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất; phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp luật định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan và cá nhân này.

Đồng chí Trần Quốc Vượng - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư cùng đồng chí Lê Minh Trí - Ủy viên Trung ương Đảng, Viện trưởng VKSND tối cao bên lề Hội nghị tổng kết năm 2019 và triển khai công tác năm 2020 của ngành Kiểm sát nhân dân ngày 27/12/2019.

Qua tham khảo lịch sử 60 năm thành lập ngành KSND, so với chiều dài lịch sử ngành Tòa án và chế định luật sư đã tròn 75 năm, rõ ràng vị trí của cơ quan Viện kiểm sát được nhắc đến và gây ra sự tranh cãi nhiều nhất. Theo nghiên cứu của TS Lê Hữu Thể, mặc dù từ năm 1945 đã bắt đầu hình thành cơ quan công tố, nhưng trong Hiến pháp 1946 không thấy bóng dáng của Viện công tố, chỉ quy định các cơ quan tư pháp bao gồm Tòa án tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các Tòa đệ nhị cấp. Các sắc lệnh của Chính phủ được ban hành kế tiếp cũng quy định cơ quan công tố nằm trong hệ thống tổ chức của Tòa án, dưới sự quản lý, điều hành của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; sau năm 1950 đã thay đổi, về mặt tổ chức, Ủy ban kháng chiến các cấp điều khiển công tố viện trong địa hạt của mình. Đến năm 1959, trên cơ sở các Nghị định của Chính phủ, Viện công tố với tư cách là một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, có tổ chức từ Trung ương đến địa phương, hệ thống cơ quan công tố được tách ra khỏi Bộ Tư pháp , trước khi Sắc lệnh số 20 ngày 26/7/1960 công bố Luật tổ chức VKSND.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển theo chiều dài lịch sử, sau năm 1960, ngành kiểm sát đã có một vị trí quan trọng trong hệ thống các cơ quan tư pháp, là chủ thể độc lập trong tiến trình thực hiện cải cách tư pháp hình sự là một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp nhằm mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và hệ thống pháp luật điều chỉnh liên quan đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, bảo đảm việc xử lý kịp thời và nghiêm minh tội phạm và người phạm tội, bảo đảm thực hiện dân chủ hơn nữa trong hoạt động tố tụng hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Với trọng tâm của cải cách tư pháp hình sự là nâng cao chất lượng tranh tụng giữa Kiểm sát viên và người nào chữa, các Nghị quyết Trung ương 8 (Khoá VII), Nghị quyết Trung ương 3 (Khoá VIII), Nghị quyết Trung ương 7 (Khoá VIII), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002, số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị đã xây dựng “chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và “chiến lược cải cách tư pháp 2020”. Một trong những quan điểm và nội dung chỉ đạo của các Nghị quyết nêu trên đã đề cập đến việc bảo đảm dân chủ hóa hoạt động tố tụng, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp.

Cùng với quá trình xây dựng thể chế và pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của ngành KSND được quy định trong Điều 107 Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014, Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự (TTHS) 2015 đã quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm nhằm thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng nêu trên. Nguyên tắc thể hiện và đề cao quá trình dân chủ hóa hoạt động tố tụng, sự bình đẳng trong quá trình giải quyết vụ án của các chủ thể thực hiện chức năng cơ bản của TTHS. Đó cũng là cơ sở nâng cao năng lực, trình độ, trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp của các Kiểm sát viên, người bào chữa nhằm đáp ứng những đòi hỏi mới của quá trình cải cách tư pháp hình sự. Các chủ thể được giao thực hiện các chức năng buộc tội và gỡ tội nói trên đều có chung nhiệm vụ là đi tìm sự thật vụ án, tìm đến chân lý khách quan của sự việc, bảo đảm quá trình giải quyết vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đáng chú ý, mặc dù tên gọi của nguyên tắc này là “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, nhưng có thể nói mức độ và phạm vi các vấn đề tranh tụng đã mở rộng ngay từ khi vụ án được khởi tố chứ không chỉ diễn ra tại phiên tòa xét xử công khai. Nội dung nguyên tắc này quy định trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Nguyên tắc này đòi hỏi tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do VKS chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp, Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.

Đồng chí Nguyễn Văn Quảng- nguyên Phó Viện trưởng VKSND tối cao (nay là Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Đà Nẵng) và Luật sư Phan Trung Hoài, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam tại buổi Tọa đàm "Kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên tại Phiên tòa hình sự" do VKSND tối cao tổ chức ngày 19/9/2018.

Đến lượt mình, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm thể hiện rõ nét và tập trung nhất ở phiên tòa xét xử vụ án hình sự, khi các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và gỡ tội đều được Tòa án tạo điều kiện để thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình, được tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án, mọi chứng cứ giữa hai bên buộc tội và gỡ tội đưa ra đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Đặc biệt, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm có một quy định rất mới, thể chế hóa đường lối của Đảng, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là “bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Quy định này lột tả một cách đầy đủ nhất bản chất, đồng thời là kết quả trực tiếp của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Bởi lẽ, phán quyết của Tòa án- biểu tượng của quyền tư pháp phải là nơi hội tụ niềm tin vào công lý của các chủ thể xã hội, trở thành địa chỉ tin cậy bảo vệ các quyền cơ bản của con người, trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy cho sự phát triển dân chủ và tiến bộ xã hội.

Một số ghi nhận về công tác bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng và hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại các phiên tòa hình sự nhìn từ góc độ của luật sư

Bên cạnh những kết quả có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức và hoạt động của ngành KSND trong 60 năm qua, nhìn từ góc độ của luật sư tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự thời gian qua, chúng tôi nhận thấy dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Viện trưởng VKSND tối cao, toàn ngành Kiểm sát đã nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác tranh tụng, đặc biệt là hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

Để thực hiện tốt Bộ luật TTHS năm 2015, Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành rất nhiều chỉ thị, không chỉ là những chỉ thị trực tiếp đối với  hoạt động tranh tụng mà còn ban hành nhiều chỉ thị để nâng cao chất lượng kiểm sát ở các giai đoạn tố tụng trước khi diễn ra phiên tòa. Đặc biệt, cùng với Chỉ thị 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, Chỉ thị số 09/CT-VKSTC ngày 6/4/2016 của Viện trưởng VKSNDTC đã đề ra các biện pháp tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa, nhằm đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp cũng như là thực hiện các quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự  2015. Chúng tôi được biết, Viện trưởng VKSND tối cao đã có những chỉ đạo quyết liệt trong việc bố trí Kiểm sát viên làm nhiệm vụ và xác định rất rõ trách nhiệm của những người đứng đầu, lãnh đạo các đơn vị trong quá trình chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ này. Gần đây, ngành Kiểm sát còn có những đổi mới trong các công tác đào tạo kỹ năng như việc tổ chức đối thoại giữa Kiểm sát viên với luật sư về kỹ năng tranh tụng, để từ đó Kiểm sát viên nhìn nhận lại những hạn chế, cũng như tham khảo, chia sẻ thêm kinh nghiệm của các luật sư trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa.

Trong một thời gian dài, thực tiễn tham gia tố tụng nảy sinh quan niệm giữa Kiểm sát viên với Luật sư thường có một khoảng cách nhiều khi không thể lấp đầy, khi mỗi bên nhận thức không đúng thì sinh ra “quyền anh, quyền tôi”, dẫn đến những va đập, ứng xử, phát ngôn thiếu chuẩn mực tại phiên tòa. Tuy nhiên, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương cải cách tư pháp, trong phần lớn các phiên tòa hình sự, nhiều Kiểm sát viên đã thực hiện tốt hai chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa.

Cùng với nhiều luật sư trực tiếp tham gia nhiều phiên tòa, đặc biệt là những vụ án thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội do Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng trực tiếp chỉ đạo, chúng tôi nhận thấy các Kiểm sát viên đã phát huy được vai trò hết sức quan trọng là thực hiện kiểm sát điều tra ngay từ giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án. Phần lớn các Kiểm sát viên thuộc VKSND TP.  Hồ Chí Minh, TP. Hà Nội, Phú Thọ và nhiều địa phương khác, một số Kiểm sát viên cao cấp của các Vụ nghiệp vụ của VKSND tối cao được phân công thực hành quyền công tố đã thực hành kiểm sát ngay từ giai đoạn điều tra, đề ra các yêu cầu điều tra cụ thể, nghiên cứu hồ sơ, nắm bắt chứng cứ và đánh giá các cơ sở buộc tội để hình thành Cáo trạng truy tố.

Trong quá trình diễn biến của phiên tòa, các Kiểm sát viên cũng đã bám sát và thực hiện phần xét hỏi, nắm bắt kỹ phần xét hỏi của Hội đồng xét xử và của Luật sư, cho nên đến khi luận tội, nhiều Kiểm sát viên đã cập nhật những diễn biến và kết quả thẩm vấn, chuẩn bị kỹ bản luận tội, không thoát ly khỏi diễn biến của phiên tòa. Đặc biệt là có một số vụ án như vụ án Trịnh Xuân Thanh, vụ án Ngân hàng Xây dựng, Oceanbank, vụ án Hứa Thị Phấn, vụ án Đinh La Thăng, vụ án Phan Văn Anh Vũ, vụ án AVG mua cổ phần Mobifone…, trong phần tranh luận, Hội đồng xét xử cho phép mở rộng phạm vi để tranh tụng với thời gian không bị giới hạn, có những phiên tòa kéo dài đến 7, 8 giờ tối thậm chí đến tận 10 giờ đêm. Điều này chứng tỏ rằng, việc tranh luận và đối đáp giữa Kiểm sát viên với Luật sư đã được tạo điều kiện, có một không gian, thời gian phù hợp cho việc tranh tụng. Dư luận xã hội và người dân bình thường cũng thấy được thông qua những phiên tòa được xét xử như thế, dựa vào kết quả thẩm vấn, tranh tụng tại phiên tòa thì nhiều quyết định của Tòa án về số phận của các bị cáo đã từng bước đảm bảo được tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong rất nhiều vụ án, các Kiểm sát viên đã chủ động tranh luận, đối đáp với Luật sư, đặc biệt tại các phiên tòa xét xử những vụ đại án hình sự. Bên cạnh đó, mặc dù có sự “bất bình đẳng”, chênh lệch lớn về số lượng Kiểm sát viên và Luật sư tại phiên tòa, trong khi Kiểm sát viên chỉ có từ 1-3 người thì Luật sư có đến 50- 60 người, thật sự khó khăn cho Kiểm sát viên trong tranh tụng. Thực tế chúng tôi nhận thấy một số Kiểm sát viên đã đối đáp, tranh luận với các Luật sư rất nghiêm túc, cởi mở và “công bằng”. Có những lúc bị “dồn ép”, nhưng với bản lĩnh nghề nghiệp và nghiệp vụ sắc sảo, nhiều Kiểm sát viên đã thực hiện tốt vai trò của mình, đã tranh luận, đối đáp từng vấn đề hoặc từng nhóm vấn đề với Luật sư để làm sáng tỏ bản chất, sự thật của vụ án. Trong một chừng mực nhất định, như ý kiến của ông Nguyễn Văn Quảng- nguyên Phó Viện trưởng VKSNDTC, đối với ngành Kiểm sát, hình ảnh và chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên chính là hình ảnh và uy tín của ngành Kiểm sát .

Tuy nhiên, trên thực tế cũng có những vụ án, những trường hợp, việc đối đáp giữa Kiểm sát viên và Luật sư vẫn chưa thỏa mãn hết dư luận và các chủ thể tham gia tố tụng. Trong quá trình thực hiện tranh tụng tại phiên tòa cũng không thể tránh khỏi sự va đập, có ý kiến cho rằng chất lượng tranh tụng của một số Kiểm sát viên ở địa phương trong một số phiên tòa chưa tốt, chưa tranh luận đối đáp đến cùng với Luật sư, thậm chí “giữ nguyên quan điểm như cáo trạng”. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Một mặt, trong diễn biến tình hình tội phạm hiện nay rất phức tạp, nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng, nhất là những vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, vấn đề kiểm sát điều tra, đánh giá chứng cứ, quyết định truy tố gặp nhiều khó khăn, thậm chí có ý kiến khác nhau. Mặt khác, để đánh giá chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên, theo chúng tôi cũng cần đứng trên quan điểm khách quan, bởi lẽ thực hiện chức năng cơ bản của TTHS, bên buộc tội dựa vào chứng cứ, luận điểm để đưa ra quan điểm buộc tội, thì bên gỡ tội cũng cố gắng để tìm ra những chứng cứ, chứng minh sự không phạm tội, hoặc là giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Việc đánh giá chứng cứ  tùy thuộc vào quan điểm, cùng một chứng cứ, cùng một sự vật hiện tượng, có nhiều cách tiếp cận và quan điểm khác nhau, khi tranh tụng, mỗi bên đều giữ quan điểm khác biệt, trong đó Kiểm sát viên bảo vệ quan điểm truy tố của Viện kiểm sát cũng là một thực tế khách quan. Vấn đề là ở chỗ, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ, trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa, mỗi chủ thể đếu phải hướng đến trách nhiệm làm sáng tỏ bản chất, sự thật khách quan của vụ án, dựa trên cơ sở pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội, từ đó làm cơ sở cho Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết có căn cứ, đúng pháp luật.

Các Kiểm sát viên của Vụ 3 VKSNDTC thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm của Tòa án nhân dân TP Hà Nội xét xử vụ án AVG mua cổ phần MobiFone. Ảnh: Báo Hà Nội mới.

Một số đề xuất, kiến nghị liên quan việc nâng cao tố chất và kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa

Từ những suy nghĩ và trình bày nêu trên, dưới góc độ Luật sư, chúng tôi mạnh dạn xin đề xuất, kiến nghị bổ sung một số vấn đề liên quan đến việc nâng cao tố chất và kỹ tranh tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên như sau:

Một là, trên cơ sở nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm được quy định trong Hiến pháp 2013 và Bộ luật TTHS 2015, việc tìm kiếm tiếng nói chung trong nhận thức về thực hiện chức năng cơ bản của TTHS giữa Kiểm sát viên và Luật sư có ý nghĩa rất quan trọng. Mặc dù có sự tiếp thu những hạt nhân hợp lý và tiến bộ của mô hình tố tụng tranh tụng, nhưng bản chất mô hình TTHS Việt Nam quy định Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội; chức năng bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ thực hiện; xét xử là chức năng thuộc về Tòa án. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn tồn tại sự mâu thuẫn, chồng lấn giữa các chức năng cơ bản của TTHS, yêu cầu về bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên trong việc thực thi các chức năng tố tụng của mình, nhất là bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội vẫn chưa thực sự được bảo đảm. Toà án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, nhân danh công lý ra phán quyết về vụ án, song Toà án thực tế vẫn được giao cả những thẩm quyền khác thuộc chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội.

Do đó, hướng đến việc cải thiện các thủ tục tố tụng tại phiên toà để bảo đảm tranh tụng dân chủ, bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, xác định rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm là nghĩa vụ của bên buộc tội (Viện kiểm sát, Kiểm sát viên), bên bào chữa được tạo cơ hội bình đẳng như Viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng bào chữa, chứng minh bị can, bị cáo không phạm tội hoặc giảm tội, giảm mức hình phạt. Các yêu cầu của bên buộc tội và bên bào chữa phải được Toà án quan tâm, đáp ứng như nhau là định hướng căn bản trong cải cách tư pháp về hình sự. Chia sẻ chung nhận thức như vậy để mỗi Kiểm sát viên hay Luật sư khi thực hiện chức phận nghề nghiệp của mình đều quan tâm đến việc tiếp cận thực hiện chức năng tố tụng một cách đúng đắn nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan, bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp.

Hai là, trước thực tiễn phát triển năng động và phong phú của đời sống kinh tế- xã hội, làm phát sinh nhiều vấn đề vướng mắc, bất cập trong chính sách, pháp luật và vận hành của thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng như các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng khác, để đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ cao cả của mình, mỗi Kiểm sát viên ngoài việc nâng cao hiểu biết pháp luật, kỹ năng tác nghiệp chuyên nghiệp, thiển nghĩ ngành Kiểm sát cần xây dựng các chuyên đề chuyên sâu, nâng cao sự hiểu biết về các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư công, bảo hiểm, thương mại có yếu tố nước ngoài để trang bị kiến thức và luận lý trong tranh tụng của các Kiểm sát viên. Ngành Kiểm sát có thể tham khảo và quan tâm xây dựng bộ sách “Sổ tay tranh tụng của Kiểm sát viên” để thành cẩm nang trong thực hành kỹ năng tranh tụng cho Kiểm sát viên.

Về phần mình, sau hơn 10 năm thành lập (5/2009), đội ngũ luật sư Việt Nam đã có được ngôi nhà chung, phát triển và trưởng thành vượt bậc, đến nay có gần 14.000 luật sư chính thức, đảm nhận bào chữa 133.317  vụ án hình sự (trong đó có 68.638 vụ án hình sự theo yêu cầu chỉ định và 64.679 vụ án hình sự được khách hàng mời). Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã xây dựng kế hoạch bồi dưỡng bắt buộc 8 giờ một năm (trước đây là 16 giờ), với nhiều chuyên đề mới, thiết thực trong các phạm vi hành nghề luật sư; đã biên soạn và phát hành 03 tập Sổ tay luật sư do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia- Sự thật phát hành với sự tài trợ của Dự án Jica (Nhật Bản), giúp cho các Luật sư trẻ có thêm kiến thức, kỹ năng trong hành nghề. Điều này có nghĩa là cả hai chủ thể buộc tội và gỡ tội cùng có trách nhiệm nâng cao nhận thức và kỹ năng nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng tố tụng của mỗi bên.

Ba là, để nâng cao chất lượng tranh tụng, một vấn đề không kém phần quan trọng là xây dựng văn hóa pháp đình, mối quan hệ phối hợp dựa trên các bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của mỗi bên. Hội đồng luật sư toàn quốc đã ban hành Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp vào năm 2011, sau đó sửa đổi, bổ sung thành Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp cho phù hợp với tình hình mới vào tháng 11/2019. Chúng tôi được biết Viện trưởng VKSNDTC cũng đã ký Quyết định số 46 ngày 20/2/2017 ban hành Quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của Tòa án. Khoản 3 và 4 Điều 7 của Quy tắc này quy định Kiểm sát viên phải có thái độ lắng nghe, tôn trọng ý kiến của người khác. Khi xét hỏi, tranh luận, đối đáp, phát biểu ý kiến, Kiểm sát viên phải dõng dạc, từ tốn, không được cáu gắt, nóng giận, xúc phạm người khác. Khi có yêu cầu, đề nghị, kiến nghị tại phiên tòa, phiên họp, Kiểm sát viên phải xin phép chủ tọa phiên tòa, phiên họp trước khi phát biểu. Kiến nghị đối với vi phạm pháp luật của người tiến hành tố tụng tại phiên tòa, phiên họp phải chính xác, góp ý trên tinh thần xây dựng để khắc phục…

Như vậy, cùng với việc Hội dồng tuyển chọn giám sát thẩm phán quốc gia ký Quyết định số 87 ngày 4/7/2018 ban hành Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử Thẩm phán, từ nay các chủ thể thực hành chức năng buộc tội, gỡ tội và phán xử đều có các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của mình. Hơn ai hết, các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng nói trên đều cần quán triệt sâu sắc, tuân thủ nghiêm túc pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp, tạo nền tảng xây dựng mối quan hệ phối hợp và đảm bảo cho nguyên tắc tranh tụng được thực thi trên thực tế.

LS. TS. PHAN TRUNG HOÀI

/trai-nghiem-ban-dau-khong-bao-gio-quen.html