Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú bất cập và kiến nghị hoàn thiện

20/04/2024 20:56 | 2 tuần trước

(LSVN) - Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 123, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015. Trong quá trình áp dụng quy định về lệnh cấm khỏi nơi cư trú hiện đang tồn tại một số bất cập, gây không ít khó khăn trong công tác xét xử và thi hành án.

Ảnh minh họa.

Quy định của pháp luật đối với việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú

Điều kiện được áp dụng

Khoản 1 Điều 123 BLTTHS năm 2015 quy định: “1. Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án”.

Theo quy định trên, thì những bị can, bị cáo phải có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng mới được áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú nhằm thay thế cho biện pháp tạm giữ, tạm giam. Mục đích của việc áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú nhằm bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án triệu tập.

Nghĩa vụ của bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú phải cam kết

Khoản 2 Điều 123 BLTTHS năm 2015 quy định: “a) Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép;

b) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;

c) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;

d) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam”.

Như vậy, luật cũng đã quy định khá rõ về những cam kết mà người bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú phải thực hiện và nếu vi phạm, sẽ bị thay thế bằng biện pháp tạm giam.

Thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú

Khoản 4 Điều 123 BLTTHS năm 2015 quy định: “Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù”.

Thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cũng bảo đảm xuyên suốt từ khi điều tra và sau cùng là chấp hành án phạt tù.

Trách nhiệm quản lý và theo dõi người đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú

Khoản 5 Điều 123 BLTTHS năm 2015 quy định: “Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.

Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Khi cơ quan có thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can, bị cáo thì phải thông báo về cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo đang cư trú để chính quyền địa phương biết, quản lý và theo dõi họ. Việc người đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú vì lý do bất khả kháng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Quy định này cũng đặt ra trách nhiệm của chính quyền xã, phường nơi bị can, bị cáo cư trú có trách nhiệm quản lý và theo dõi người bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Một số bất cập trong thực tiễn thi hành

Thứ nhất, điều kiện áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

Theo Điều 11 Luật Cư trú năm 2020 quy định: “1. Nơi cư trú của công dân bao gồm nơi thường trú, nơi tạm trú.

2. Trường hợp không xác định được nơi thường trú, nơi tạm trú thì nơi cư trú của công dân là nơi ở hiện tại được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật này”.

Như vậy, được hiểu nơi cư trú của công dân bao gồm nơi thường trú và nơi tạm trú; trường hợp không xác định được nơi ở hiện tại, thì xác định theo khoản 1 Điều 19 của Luật Cư trú năm 2020. Tại khoản 1 Điều 19 quy định: “1. Nơi cư trú của người không có cả nơi thường trú và nơi tạm trú do không đủ điều kiện đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú là nơi ở hiện tại của người đó; trường hợp không có địa điểm chỗ ở cụ thể thì nơi ở hiện tại được xác định là đơn vị hành chính cấp xã nơi người đó đang thực tế sinh sống, người không có nơi thường trú, nơi tạm trú phải khai báo thông tin về cư trú với cơ quan đăng ký cư trú tại nơi ở hiện tại”.

Trong thực tế khi áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có những bị can, bị cáo đăng ký hộ khẩu thường trú ở một nơi khác, nhưng khi thực hiện hành vi phạm tội lại đang ở một nơi khác và không thực hiện việc đăng ký tạm trú tại nơi ở hiện tại. Vấn đề đặt ra là, người này phải khai báo thông tin về nơi cư trú với cơ quan đăng ký cư trú tại nơi ở hiện tại thì mới được xem xét áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

Tuy nhiên, khi cơ quan có thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đã không hướng dẫn cho bị can, bị cáo về việc khai báo thông tin cư trú với chính quyền địa phương. Dẫn đến nhiều trường hợp, bị can, bị cáo sau khi bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú lại tự ý đi lại mà không có cơ quan nào giám sát. Từ đó, gây khó khăn cho Tòa án và cơ quan Thi hành án hình sự liên lạc với bị can, bị cáo để chuẩn bị cho công tác xét xử và thi hành án.

Thứ hai, trách nhiệm quản lý và theo dõi người đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Khoản 5 Điều 123 BLTTHS năm 2015 quy định: "Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ”.

Như vậy, theo quy định của luật thì người có thẩm quyền áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo cho cơ quan, chính quyền địa phương nơi bị can, bị cáo đang sinh sống để thực hiện việc quản lý và theo dõi đối tượng trong thời gian áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Tuy nhiên, trong thực tế thực hiện thì các cơ quan có trách nhiệm theo dõi và quản lý đối tượng vẫn không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, không thực hiện việc quản lý và theo dõi bị can, bị cáo, dẫn đến những trường hợp bị can, bị cáo đi khỏi nơi cư trú, gây khó khăn trong công tác xét xử và thi hành án. Cụ thể, khi các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ra lệnh và giao cho địa phương quản lý bị can, bị cáo trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử thì các cơ quan được nhận nhiệm vụ quản lý đối tượng không có ý kiến gì.

Tuy nhiên, khi Tòa án gửi quyết định thi hành án phạt tù cho hưởng án treo và hồ sơ thi hành án đối với người chấp hành án và đặt ra trách nhiệm theo dõi đối tượng trong thời gian thử thách thì các cơ quan nhận nhiệm vụ quản lý lại viện lý do là đối tượng không đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa bàn do mình quản lý nên không nhận hồ sơ thi hành án và sau đó trả hồ sơ cho cơ quan thi hành án hình sự.

Như vậy, việc đùn đẩy trách nhiệm và không thực hiện đúng trách nhiệm khi áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú của các cơ quan vô hình chung đã làm cho việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú không đạt hiệu quả, gây khó khăn trong công tác xét xử và thi hành án tại Tòa án.

Kiến nghị hoàn thiện

Từ những phân tích về mặt lý luận và thực tiễn như trên, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị để việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đạt được đúng mục đích mà điều luật đã quy định.

Một là, tại Điều 123 BLTTHS năm 2015 quy định về điều kiện để áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là có nơi cư trú và có lý lịch rõ ràng. Do đó, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về nơi cư trú đối với những trường hợp áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú như Luật Cư trú năm 2020 quy định. Mặt khác, trước khi ban hành quyết định áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì cơ quan có thẩm quyền áp dụng phải tiến hành xác minh thông tin về nơi cư trú của bị can, bị cáo một cách chặt chẽ hơn, hướng dẫn bị can, bị cáo tiến hành khai báo thông tin với cơ quan quản lý về nơi cư trú nếu trường hợp không thể đăng ký được hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú.

Hai là, cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm quản lý, theo dõi đối tượng trong thời gian áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và đặt ra những quy định về biện pháp xử lý nếu như không thực hiện tốt trách nhiệm quản lý, theo dõi đối tượng trong thời gian áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

2. Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

3. Luật Cư trú năm 2020.

TRẦN VĂN MINH

Tòa án Quân sự khu vực Quân khu 7

 Một số vấn đề về xử lý vật chứng, đồ vật, tài sản trong vụ án hình sự