Khái niệm hình phạt chính không tước tự do
Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam đầu tiên năm 1985 cũng như các văn bản pháp luật hình sự trước đó đều không quy định khái niệm hình phạt. Khái niệm về hình phạt thường được thể hiện thông qua các quan điểm của các nhà nghiên cứu, giáo trình của các cơ sở đào tạo ngành Luật.
Trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung của Khoa Luật, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (xuất bản năm 1993), hình phạt được định nghĩa là: “Biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, được quy định trong luật hình sự và do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội, nhằm trừng trị và cải tạo họ, góp phần vào đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ chế độ, trật tự xã hội và các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân".
Trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung (Trường Đại học Luật Hà Nội, xuất bản năm 1996), hình phạt được định nghĩa là: “Biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Tòa án áp dụng đối với người thực hiện tội phạm, nhằm tước bỏ ở họ những quyền và lợi ích nhất định theo quy định của luật hình sự, nhằm mục đích giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm".
Đến BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 đều đã bổ sung điều luật định nghĩa rõ khái niệm về hình phạt.
Cụ thể, Điều 26 BLHS năm 1999 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội".
Định nghĩa này được sửa đổi, bổ sung tại Điều 30 BLHS năm 2015: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của họ”.
Các định nghĩa trong BLHS năm 1999 và năm 2015 trên về cơ bản phù hợp với quan điểm trong các tài liệu nghiên cứu và giáo trình trước đây. Điểm khác biệt chủ yếu nằm ở cách diễn đạt và việc bổ sung thêm chủ thể là pháp nhân thương mại - đối tượng mới trong trách nhiệm hình sự theo BLHS năm 2015.
Từ những cơ sở lý luận đã trình bày, có thể hiểu “Hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của chủ thể bị áp dụng, được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định đối với cá nhân hoặc pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Theo Pháp luật hình sự Việt Nam, hình phạt được chia thành hình phạt chính và hình phạt bổ sung, căn cứ chủ yếu dựa vào khả năng áp dụng đối với từng tội phạm.
Hình phạt chính là hình phạt được tuyên độc lập và mỗi tội phạm chỉ bị áp dụng một loại hình phạt chính. Ngược lại, hình phạt bổ sung không thể tuyên độc lập, mà chỉ được áp dụng kèm theo một hình phạt chính, và một tội phạm có thể kèm theo một hoặc nhiều hình phạt bổ sung.
Bên cạnh cách phân loại nêu trên, hình phạt còn có thể được chia thành hai nhóm khác dựa vào tính chất tước bỏ tự do thân thể của người phạm tội: hình phạt tước tự do và hình phạt không tước tự do (KTTD). Tuy hai thuật ngữ này chưa được quy định chính thức trong BLHS, nhưng đã được thừa nhận trong khoa học pháp lý như những khái niệm mang tính học thuật, chưa có định nghĩa cụ thể trong luật.
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề này, tác giả tập trung phân tích bốn loại hình phạt chính không tước tự do bao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ (CTKGG) và Trục xuất.
Dựa trên khái niệm hình phạt tại Điều 30 BLHS năm 2015 và tính chất không tước đoạt tự do thân thể, tác giả có thể khai quát về hình phạt chính không tước tự do như sau: “Hình phạt chính không tước tự do là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định áp dụng đối với người phạm tội, nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của họ nhưng không buộc phải cách ly khỏi đời sống xã hội”.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Đặc điểm của hình phạt chính không tước tự do
Hình phạt chính KTTD về bản chất vẫn là hình phạt và có đầy đủ các đặc điểm chung của hình phạt: là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định áp dụng đối với người phạm tội. Tuy nhiên, hình phạt chính KTTD cũng có những đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội. Đây là đặc điểm quan trọng phân biệt hình phạt chính KTTD với hình phạt chính tước tự do. Nhiều trường hợp phạm tội có mức độ nhẹ, phạm tội lần đầu và có thái độ thành khẩn, ăn năn thì không cần thiết phải áp dụng hình phạt tước tự do mà vẫn đạt được mục đích giáo dục và phòng ngừa tội phạm thông qua các hình phạt KTTD. Việc không cách ly người phạm tội giúp họ dễ dàng tái hòa nhập cộng đồng, giảm nguy cơ tái phạm do mất phương hướng xã hội.
Thứ hai, tính chất cưỡng chế thấp hơn hình phạt tù. Hình phạt chính KTTD dựa nhiều vào ý thức tự giác của người phạm tội trong quá trình cải tạo, với mức độ quản lý, giám sát nhẹ nhàng hơn so với hình phạt tù, vốn áp dụng chế độ giam giữ và kỷ luật nghiêm ngặt. Vì vậy, tính cưỡng chế và mức độ trừng phạt trong hình phạt chính KTTD thấp hơn so với hình phạt tước tự do.
Thứ ba, tước bỏ ít quyền con người hơn so với hình phạt tước tự do. Hình phạt chính KTTD bảo đảm quyền con người của người bị kết án tốt hơn, ít ảnh hưởng đến quyền và lợi ích thiết thân so với hình phạt tước tự do, vốn hạn chế nhiều mặt trong cuộc sống người phạm tội.
Thứ tư, hạn chế pháp lý và điều kiện áp dụng riêng. Ví dụ, hình phạt cải tạo không giam giữ (CTKGG) chỉ áp dụng cho người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, trong khi hình phạt cảnh cáo và phạt tiền chỉ áp dụng cho người phạm tội ít nghiêm trọng.
Thứ năm, việc thi hành hình phạt chính KTTD được giao cho nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau. Không như hình phạt tước tự do thường do một cơ quan chuyên trách thi hành, hình phạt chính KTTD được quản lý, giám sát bởi nhiều cơ quan, tổ chức xã hội nơi người bị kết án cư trú, làm việc, phối hợp cùng gia đình trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội. Điều này thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo và xu hướng xã hội hóa trong công tác thi hành án hình sự.
Thứ sáu, vai trò của cộng đồng được phát huy cao độ trong việc giáo dục và cải tạo người phạm tội. Người bị kết án chịu sự giám sát, giúp đỡ và giáo dục của chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và gia đình. Họ được hòa nhập với xã hội, hưởng các quyền sinh hoạt bình thường và có nhiều cơ hội để tự giác cải tạo, sửa chữa lỗi lầm, từ đó giảm bớt mặc cảm và thành kiến xã hội, thúc đẩy quá trình tái hòa nhập cộng đồng.
Ý nghĩa của hình phạt chính không tước tự do Hình phạt chính KTTD trong Luật Hình sự Việt Nam không chỉ thể hiện xu hướng đa dạng hóa hệ thống hình phạt (HTHP), mà còn góp phần nâng cao tính linh hoạt và hợp lý trong công tác xét xử. Việc quy định nhiều loại hình phạt có mức độ nghiêm khắc khác nhau là tiền đề quan trọng để Tòa án lựa chọn hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Qua đó, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các chế tài hình sự, hạn chế sự chênh lệch không hợp lý trong các bản án có tình tiết tương đồng.
Thực tiễn cho thấy, nếu không quy định hình phạt CTKGG, hệ thống hình phạt sẽ bị phân hóa thành hai cực: hoặc quá nhẹ như cảnh cáo hoặc quá nặng như tù giam. Khi đó, cùng một hành vi phạm tội, người này có thể bị phạt tù trong khi người khác chỉ bị cảnh cáo, tạo nên sự bất cân xứng không chỉ trong tác động pháp lý mà còn về phương diện xã hội, đặc biệt liên quan đến danh dự, nhân phẩm và quyền tự do của người phạm tội.
Như một học giả nhận định, “hệ thống hình phạt sẽ không thể hoàn thiện nếu giữa chúng vẫn tồn tại những “khoảng trống”, đòi hỏi phải phải được bổ sung bằng một hoặc nhiều loại hình phạt khác có mức độ nghiêm khắc tương ứng”. Thực tiễn lập pháp và tư pháp đều cho thấy rằng, một hệ thống hình phạt được thiết kế hợp lý với các hình thức đa dạng về mức độ và điều kiện áp dụng sẽ giúp Tòa án có đủ công cụ để xét xử một cách công minh, đảm bảo nguyên tắc xử lý cá thể hóa, đồng thời phục vụ hiệu quả các mục tiêu của chính sách hình sự.
Đặc biệt, các hình phạt chính KTTD còn là biểu hiện sinh động của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt. Trong xu thế lấy phòng ngừa và giáo dục làm trọng tâm, việc dành cơ chế hình phạt nhẹ hơn cho người phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt và thể hiện thái độ ăn năn hối cải là sự cụ thể hóa tinh thần khoan dung của pháp luật. Như vậy, “một yêu cầu quan trọng của nguyên tắc phân hóa TNHS là việc xây dựng một hệ thống hình phạt đa dạng, trong đó có cả các hình phạt KTTD của người phạm tội phù hợp với tính đa dạng về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm”.
Trong bối cảnh hiện nay, việc mở rộng áp dụng các hình phạt KTTD còn mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Không chỉ giải tỏa phần nào áp lực cho hệ thống giam giữ vốn đã quá tải, mà còn khắc phục những bất cập trong tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành án tù - những vấn đề tồn tại dai dẳng như kỳ thị, gián đoạn nghề nghiệp, đổ vỡ gia đình. Với các tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội do lỗi vô ý, hình phạt tù không những không đem lại hiệu quả cải tạo rõ rệt mà còn có thể tạo ra hệ quả ngược. Đó cũng là lý do mà thực tiễn cho thấy:“Kinh nghiệm thực tiễn đúc kết là bất kỳ sự nghiêm khắc quá đáng nào của hình phạt được áp dụng cũng không phù hợp với nguyên tắc nhân đạo và công bằng, dẫn đến sự chán nản, không còn niềm tin vào sự công minh của pháp luật và làm mất động lực tự cải tạo, giáo dục của người phạm tội”.
Việc quy định và mở rộng các hình phạt không tước tự do (KTTD) là minh chứng rõ nét cho nguyên tắc “giáo dục là chính” trong xử lý hình sự. Nếu hình phạt là công cụ cưỡng chế, thì cưỡng chế cũng phải giới hạn ở mức “cần và đủ”, nhằm cải tạo con người thay vì loại bỏ họ khỏi xã hội. Khi nhiều biện pháp có thể đạt cùng mục tiêu răn đe và phòng ngừa, pháp luật nên ưu tiên hình phạt ít tổn hại nhất đến nhân phẩm và cơ hội tái hòa nhập của người phạm tội.
Tính nhân đạo của các hình phạt KTTD thể hiện ở việc vừa bảo vệ lợi ích xã hội, vừa tôn trọng quyền cơ bản của người bị kết án. Họ không bị cách ly khỏi cộng đồng mà chỉ chịu những giới hạn nhất định về tinh thần (cảnh cáo, CTKGG), vật chất (phạt tiền) hoặc quyền cư trú (trục xuất). Đây là sự lựa chọn hình phạt hài hòa giữa răn đe và khoan dung. Đáng chú ý, hình phạt KTTD còn thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng trong giám sát và giáo dục người phạm tội, góp phần nhân văn hóa pháp luật hình sự, biến quá trình thi hành án thành cơ hội phục hồi thay vì trừng phạt thuần túy.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Thị Oanh (2008), Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, trang 48, 71.
2. Trịnh Quốc Toản (2009), Các hình phạt bổ sung trong Luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 21.
TRẦN DOÃN HƯNG
Tòa án Quân sự Thủ đô Hà Nội
PHẠM ĐỨC ANH
Tòa án Quân sự khu vực Thủ đô Hà Nội

