Khó khăn, vướng mắc khi áp dụng Điều 295, Bộ luật Hình sự

09/06/2023 22:34 | 11 tháng trước

(LSVN) - Điều 295, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội "Vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người", đây là quy định có ý nghĩa rất quan trọng, nâng cao tính giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với loại tội phạm xâm phạm an toàn công cộng; bảo đảm phù hợp với yêu cầu của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; thực hiện chủ trương về tăng tính hướng thiện và phòng ngừa tội phạm, tăng cường áp dụng các chế tài không tước tự do; bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng, thuận lợi cho việc áp dụng điều luật trong xử lý tội phạm. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu và áp dụng pháp luật trên thực tiễn, tác giả nhận thấy còn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc.

Ảnh minh họa.

1. Quy định của Luật

So với Bộ luật Hình sự năm 1999 thì Điều 295 Bộ luật Hình sự không có sửa đổi, bổ sung, cụ thể:

1. Người nào vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỉ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Làm chết 02 người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;

d) Là người có trách nhiệm về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 năm đến 12 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Khi áp dụng pháp luật trên thực tiễn, chúng ta cần lưu ý:

 Về khách thể của tội phạm:

- Tội phạm xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về an toàn lao động, về vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người. Đó là những quy định nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, an toàn cho người lao động và mọi công dân.

Về mặt khách quan của tội phạm:

- Hành vi phạm tội thể hiện ở việc không thực hiện hoặc không đúng, không đầy đủ, không đúng quy trình,… những quy định về an toàn trên các lĩnh vực đã nêu ở trên. Tuy nhiên, việc quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động và an toàn ở những nơi đông người trong mỗi ngành có những những quy định khác nhau, vì vậy khi xem xét những hành vi vi phạm trên cần nắm vững các quy định của từng ngành, từng lĩnh vực;

- Hậu quả thiệt hại là yếu tố cấu thành bắt buộc của tội phạm. Hành vi phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự (trách nhiệm hình sự) khi có các tình tiết như: Làm chết người; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01người mà tỉ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

- Mối quan hệ nhân quả là dấu hiệu bắt buộc để xem xét trách nhiệm hình sự. Trường hợp có tai nạn lao động xảy ra gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của người lao động trong quá trình tham gia lao động mà nguyên nhân là do chính bản thân người lao động vi phạm các quy định về an toàn, hoặc vô ý thiếu thận trọng tự gây ra cho mình thì không truy cứu trách nhiệm hình sự người có trách nhiệm trong việc đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động.

Về mặt chủ quan của tội phạm:

Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý, người phạm tội nhận thức được những vi phạm của mình về quy định an toàn lao động, vệ sinh lao động, an toàn ở những nơi đông người nhưng cho rằng hậu quả tác hại không xảy hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc do cẩu thả mà không nhận thức được hậu quả tác hại của hành vi mặc dù phải thấy trước hoặc buộc phải thấy trước.

Chủ thể của tội phạm: Tội phạm được thực hiện bởi người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. Ngoài ra còn đòi hỏi phải có dấu hiệu của chủ thể đặc biệt đó là: Phải là người có trách nhiệm trong việc chỉ đạo hoặc thực hiện các quy trình, quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động và an toàn ở nơi đông người. Trường hợp không phải là người có trách nhiệm nêu trên mà là những người khác do vi phạm các quy định đó và gây hậu quả nghiêm trọng thì xem xét trách nhiệm hình sự ở các tội phạm tương ứng như: Tội vô ý làm chết người, Vô ý gây thương tích,…

2. Khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị

Trên cơ sở nghiên cứu các quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật, tác giả nhận thấy còn tồn tại một số vướng mắc và đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện các quy định tại Điều 295, Bộ luật Hình sự.

Khó khăn, vướng mắc

Một là, về cấu thành tội phạm cơ bản: Đây là cấu thành vật chất, điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này khi có hành vi gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 295. Trường hợp người có hành vi vi phạm nhưng chưa gây ra hậu quả, hoặc gây hậu quả ở mức độ không đáng kể, hậu quả không thỏa mãn quy định tại khoản 1, Điều 295 sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Như vậy, hậu quả là điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh này gồm 01 trong 03 dạng thiệt hại: Tính mạng, sức khỏe, tài sản. Người phạm tội chỉ cần gây ra 01 trong 03 dạng thiệt hại nêu trên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không cần gây đồng thời 02 trong 03 hoặc cả 03 dạng thiệt hại nêu trên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này dẫn đến thực trạng, người gây thiệt hại lớn nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì không thuộc một trong các trường hợp quy định, người gây thiệt hại nhỏ hơn bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì thuộc một trong các trường hợp do luật định.

Ví dụ 1: Một người có hành vi vi phạm gây thiệt hại về tài sản là 99 triệu đồng, đồng thời gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể là 60%. Thiệt hại mà người này gây ra không thỏa mãn quy định tại khoản 1, Điều 295, do vậy không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về an toàn lao động.

Ví dụ 2: Một người có hành vi vi phạm gây thiệt hại về tài sản là 100 triệu đồng nhưng không gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe cho bất kỳ ai. Thiệt hại do người này gây ra thuộc trường hợp quy định điểm d, khoản 1, Điều 295. Do vậy sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về an toàn lao động.

Từ hai ví dụ trên cho thấy: Người gây thiệt hại ở ví dụ 1 lớn hơn người gây thiệt hại ở ví dụ 2 nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì khoản 1, Điều 295 không quy định đồng thời thiệt hại về sức khỏe và tài sản là điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, người trường hợp sau gây thiệt hại nhỏ hơn nhưng bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì thuộc một trong các trường hợp quy định.

Hai là, cấu thành tội phạm tăng nặng: Thiệt hại được quy định theo hướng như trong khoản 1 dẫn đến việc gây thiệt hại lớn hơn nhưng bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở cấu thành nhẹ hơn, gây thiệt hại nhỏ hơn nhưng bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở cấu thành nặng hơn.

Ví dụ 1: Một người có hành vi vi phạm quy định về an toàn lao động và gây thiệt hại về tính mạng cho 01 người, đồng thời gây thiệt hại về sức khỏe cho 02 người khác với tỉ lệ tổn thương cơ thể là 120% (người thứ nhất 50%, người thứ hai 70%). Hành vi này thỏa mãn quy định tại điểm a và điểm c, khoản 1, Điều 295; sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1. Tuy nhiên, ở ví dụ trên, nếu không gây chết người nhưng gây thiệt hại về sức khỏe cho 02 người mà tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể là 122% (người thứ nhất 51%, người thứ hai 71%) thì lại thỏa mãn quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 295. Trong khi đó, thiệt hại ở trường hợp thứ hai nhỏ hơn thiệt hại ở trường hợp thứ nhất.

Ví dụ 2: Trường hợp 1: Một người có hành vi vi phạm quy định về an toàn lao động và gây thiệt hại về tính mạng cho 02 người, đồng thời gây thiệt hại về sức khỏe cho 02 người khác với tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể là 130% (người thứ nhất 60%, người thứ hai 70%). Hành vi này thỏa mãn quy định tại điểm a và điểm b, khoản 2, Điều 295; sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 với mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Trường hợp 2: Người có hành vi vi phạm quy định về an toàn lao động, gây thiệt hại về sức khỏe cho 04 người với tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể là 220% (người thứ nhất 40%, người thứ hai 50%, người thứ ba 60%, người thứ tư 70%). Hành vi này thỏa mãn quy định tại điểm b, khoản 3, Điều 295; bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 với mức phạt tù từ 06 năm đến 12 năm. So sánh hai trường hợp trên, chúng ta thấy rằng: Người trên gây thiệt hại ở trường hợp 1 lớn hơn người gây thiệt hại ở trường hợp 2, nhưng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, trong khi người gây thiệt hại ở trường hợp 2 gây thiệt hại nhỏ hơn nhưng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3.

Ba là, xác định khả năng thực tế dẫn đến hậu quả: Khoản 4, Điều 295, Bộ luật Hình sự quy định hành vi vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c, khoản 3 nếu không được ngăn chặn kịp thời phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc Bộ luật Hình sự quy định như vậy nhằm phòng ngừa hành vi vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi việc lao động, sản xuất được mở rộng nhưng ý thức chấp hành quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người của nhiều người chưa cao. Mặc dù, Bộ luật Hình sự đã quy định, tuy nhiên các cơ quan chức năng hầu như không áp dụng quy định này để xử lý do khó khăn trong việc xác định trường hợp nào có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả.

Đề xuất, kiến nghị

Một là, đề xuất sửa đổi, bổ sung cấu thành tội phạm cơ bản tại khoản 1, Điều 295, Bộ luật Hình sự theo hướng quy định gây thiệt hại cả sức khỏe và tài sản, cụ thể: “Gây thiệt hại về tài sản dưới 100.000.000 đồng và gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 02 người mà tổng tỉ lệ tổng thương cơ thể của những người này dưới 61%”.

Hai là, khoản 1, Điều 3, Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần thì “tổng tỉ lệ % tổn thương cơ thể của một người phải nhỏ hơn 100%”. Vì vậy, cần thiết phải xem xét quy định 01 người chết thì tỉ lệ tổn thương cơ thể là 100%, Từ đó làm cơ sở để xác định trong vụ án vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người mà có 01 bị hại hoặc 02 bị hại chết và nhiều bị hại khác bị thương thì cộng các tỉ lệ thương tổn cơ thể của các bị hại trong đó 01 người chết tính là 100% để xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội theo điểm, khoản nào của Điều 295, Bộ luật Hình sự.

VÕ MINH TUẤN

Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sử dụng dịch vụ vay trực tuyến tại các công ty tài chính