/ Trao đổi - Ý kiến
/ Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm

Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm

13/03/2022 13:44 |

(LSVN) - Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự là hoạt động của những người tiến hành tố tụng, Thẩm phán sử dụng các phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp nhằm đánh giá các tài liệu, chứng cứ để xác định sự thật khách quan vụ án. Thông qua việc nghiên cứu hồ sơ mới biết được hồ sơ vụ án đã đầy đủ các tài liệu hay chưa, nếu phạm tội thì phạm tội gì được quy định trong Bộ luật Hình sự, các quyết định tố tụng của cấp có thẩm quyền có đúng pháp luật hay không, trên cơ sở nghiên cứu mới có căn cứ để quyết định có đưa vụ án ra xét xử hay trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án.

Ảnh minh họa. 

Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự

Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự nhằm giúp cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nắm chắc được nội dung vụ án, từ đó có hướng giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn và chính xác nhất. Trong hoạt động tố tụng hình sự các tình tiết trong vụ án luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, để nắm được nội dung vụ án một cách chắc chắn cũng như chủ động trong quá trình xét xử đòi hỏi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, có hệ thống và khoa học toàn bộ các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra đã có trong hồ sơ. Trước hết,  cần nghiên cứu từng tài liệu riêng lẻ kết hợp so sánh với các tài liệu, chứng cứ khác để tìm ra mối liên hệ. Qua đó, tổng hợp lại để phát hiện sự hợp lý hoặc những điểm mâu thuẫn giữa các tài liệu, chứng cứ nhằm đánh giá sự tin cậy của các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập. Đây chính là cơ sở để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể ra một trong các quyết định được quy định tại Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự như đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Bên cạnh đó, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự phải làm sáng tỏ những vấn đề sau: Vụ án có thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp mình xét xử; Có cần thiết áp dụng, thay đổi, hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị can (các bị can); Có cần xử lý vật chứng hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm việc bồi thường thiệt hại trước khi xét xử; Các thủ tục trong giai đoạn điều tra, truy tố đã đảm bảo đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật; Hành vi của bị can (các bị can) có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm không; tội danh và điều khoản mà Viện Kiểm sát truy tố có phù hợp; Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị can (các bị can) đã phù hợp chưa; Bị can bị truy tố theo khung hình phạt nào? Có phải là người dưới 18 tuổi không? Có nhược điểm về tâm thần hay thể chất không? để khi ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử chú ý về thành phần Hội đồng xét xử, người bào chữa, người đại diện; Có căn cứ để đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án.

Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự là cách thức xem xét, đọc, ghi chép, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhằm nắm vững bản chất vụ án, diễn biến của hành vi phạm tội, qua đó xác định sự thật khách quan của vụ án.

Có nhiều phương pháp để nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự; việc lựa chọn phương pháp nghiên cứu nào phụ thuộc vào từng vụ án cụ thể và kinh nghiệm của từng Thẩm phán. Thông thường Thẩm phán thực hiện hai phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự phổ biến đó là:

Phương pháp thứ nhất: Nghiên cứu hồ sơ vụ án theo trình tự tố tụng, có nghĩa là bắt đầu nghiên cứu từ các tài liệu tố tụng gồm: Quyết định khởi tố vụ án; Quyết định khởi tố bị can; Các quyết định phê chuẩn của Viện Kiểm sát; Các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn; Kết luận điều tra; Bản cáo trạng... Nghiên cứu theo phương pháp này có ưu điểm là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thái độ khách quan hơn, không bị chi phối và phụ thuộc vào quan điểm của cơ quan Điều tra tại kết luận điều tra và quan điểm truy tố của Viện Kiểm sát tại cáo trạng, song có nhược điểm mất nhiều thời gian mới nắm được các tình tiết của vụ án cũng như quan điểm của cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát.

Phương pháp thứ hai: Nghiên cứu hồ sơ không theo trình tự tố tụng, bắt đầu từ bản Cáo trạng rồi đến các tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án theo trình tự ngược lại về mặt thời gian để kiểm tra tính xác thực và đúng đắn của quyết định truy tố. Phương pháp này có ưu điểm về mặt thời gian song cũng có nhược điểm là nếu không cẩn thận Thẩm phán dễ bị ảnh hưởng bởi quan điểm của cơ quan Điều tra cũng như quan điểm truy tố của Viện Kiểm sát dẫn đến có định kiến và hay áp đặt ý thức chủ quan vào việc giải quyết vụ án, kể cả việc định tội danh và quyết định hình phạt.

Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự

Sau khi nhận hồ sơ vụ án hình sự, Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà cần kiểm tra xem hồ sơ đã đảm bảo về thủ tục tố tụng và đủ số lượng bút lục theo danh mục thống kê tài liệu có trong hồ sơ không, nếu phát hiện thiếu tài liệu nào thì phải kiểm tra để giải quyết ngay (kiểm tra số lượng bút lục theo danh mục thống kê trước hết là nhiệm vụ của thư ký khi tiếp nhận hồ sơ, tuy nhiên việc đó chưa hẳn đã tuyệt đối nên đòi hỏi phải kiểm tra lại một lần nữa nhất là việc giao nhận cáo trạng, vật chứng…); Khi nghiên cứu bất cứ tài liệu, chứng cứ nào có trong hồ sơ phải kiểm tra để đánh giá về tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan của chúng. Việc đánh giá tổng hợp các chứng cứ về vụ án chỉ được tiến hành sau khi đã nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ.

Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự theo phương pháp nghiên cứu thứ hai “nghiên cứu hồ sơ không theo trình tự tố tụng” cần tiến hành theo trình tự các nhóm tài liệu sau:

Nghiên cứu bản Cáo trạng và biên bản giao nhận Cáo trạng

Bản Cáo trạng là cơ sở pháp lý để Tòa án xét xử vụ án, vì vậy Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần nghiên cứu kỹ bản Cáo trạng để ghi chép, nắm vững nội dung vụ án và xác định rõ giới hạn xét xử cụ thể: Các hành vi phạm tội của từng bị can mà Viện Kiểm sát đã xác định trong Cáo trạng (kể cả hành vi không truy tố);  Các chứng cứ mà Viện Kiểm sát dùng làm căn cứ xác định tội phạm và người phạm tội; Tội danh và điều khoản mà Viện Kiểm sát truy tố bị can (các bị can); Những tình tiết định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị can; Mức độ thiệt hại và yêu cầu cụ thể về bồi thường thiệt hại (nếu có).

Cùng với việc nghiên cứu cáo trạng, cần đọc biên bản giao nhận cáo trạng để tìm hiểu xem bị can có đồng ý với nội dung bản cáo trạng hay không? nếu không đồng ý thì ý kiến của bị can như thế nào, bị can có đưa ra được những chứng cứ để bác bỏ một phần hay toàn bộ nội dung quyết định truy tố hay không? dự kiến tình huống có thể phát sinh tại phiên tòa như phản cung, thay đổi lời khai.

Nghiên cứu kết luận điều tra

Sau khi nghiên cứu Bản cáo trạng, cần nghiên cứu Kết luận điều tra. Việc nghiên cứu kết luận điều tra và đối chiếu, so sánh với bản Cáo trạng giúp Thẩm phán nắm được diễn biến của hành vi phạm tội, các chứng cứ mà cơ quan điều tra sử dụng để chứng minh tội phạm và người phạm tội, kết luận và đề nghị của cơ quan điều tra về hướng giải quyết vụ án. Cần so sánh những điểm khác nhau giữa Kết luận điều tra và bản Cáo trạng (về các hành vi phạm tội, diện truy tố, các tội danh, điều khoản áp dụng của Bộ luật Hình sự, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị áp dụng đối với từng bị can và lý do của sự khác nhau đó trong các vụ án có đồng phạm) để có hướng giải quyết các mâu thuẫn khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu khác.

Nghiên cứu các tài liệu về lời khai của những người tham gia tố tụng

Sau khi nghiên cứu bản Cáo trạng và Kết luận điều tra, nghiên cứu đến các tài liệu về lời khai của những người tham gia tố tụng như: Biên bản ghi lời khai của người bị tạm giữ, bị can, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người đại diện hợp pháp của bị can, bị hại (nếu có), biên bản đối chất và các tài liệu khác.

(i) Nghiên cứu lời khai của bị can

Cần xác định lời khai của bị can là một trong những chứng cứ trực tiếp để xác định sự thật về vụ án, chứa đựng các yếu tố cấu thành tội phạm thể hiện hành vi, ý chí, mong muốn hậu quả xảy ra, cố ý hay vô ý... Việc nghiên cứu lời khai, bản tường trình của bị can cần tiến hành theo trình tự thời gian lấy lời khai và cần xác định rõ những hành vi phạm tội nào nêu trong Cáo trạng mà bị can thừa nhận, hành vi nào mà bị can không thừa nhận và lý do của việc thừa nhận hay không thừa nhận hoặc thay đổi lời khai là gì; động cơ, mục đích thực hiện hành vi phạm tội; mức độ ăn năn hối cải và thái độ khai báo của bị can trong quá trình điều tra. Các lý lẽ, chứng cứ mà bị can đưa ra để bào chữa cho mình cũng như những điểm mâu thuẫn trong các lời khai của bị can.

Lưu ý, trong quá trình nghiên cứu lời khai của bị can, cần kiểm tra việc tuân thủ tố tụng của cơ quan điều tra khi lấy lời khai để bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ như: Bị can có được giải thích đầy đủ về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự hay không (quyền bào chữa của bị can trong trường hợp người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi; bị can thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí)? Việc ký xác nhận của bị can có đúng quy định không? Việc sửa chữa, tẩy xóa biên bản hỏi cung bị can có chữ ký xác nhận của bị can hay không? Trường hợp biên bản hỏi cung ghi cả thái độ, cử chỉ của bị can trong lúc trả lời như: bị can cúi đầu, im lặng, không trả lời, lý do bị can không ký vào biên bản… thì Thẩm phán cần ghi lại và lưu ý làm rõ nguyên nhân, trong nhiều trường hợp những cử chỉ, hành vi này thể hiện diễn biến tâm lý, đấu tranh tư tưởng của bị can khi khai báo.

(ii) Nghiên cứu lời khai của người làm chứng

Cũng  như nghiên cứu lời khai của bị can, khi nghiên cứu lời khai của người làm chứng cần tiến hành nghiên cứu theo trình tự thời gian để xác định: Độ tin cậy, tính chính xác trong lời khai của người làm chứng và cần xác định họ khai về những tình tiết cụ thể nào trong vụ án và tại sao họ biết; Họ trực tiếp chứng kiến sự việc hay gián tiếp biết về vụ việc thông qua nguồn tin nào khác; Mối quan hệ giữa người làm chứng với người phạm tội và bị hại; Điều kiện khách quan (không gian, thời gian, địa điểm) và điều kiện chủ quan (tinh thần, tuổi tác, nghề nghiệp, khả năng tiếp thu thông tin và nhận thức...) của người làm chứng khi tiếp nhận thông tin. Các điểm mâu thuẫn giữa các lời khai trước và lời khai sau của người làm chứng (để đối chiếu với các chứng cứ khác có trong vụ án). Nếu cần thiết, phải cho đối chất giữa người làm chứng và bị can, bị cáo hoặc thực nghiệm điều tra.

(iii) Nghiên cứu biên bản đối chất

Trong hồ sơ vụ án có thể có nhiều biên bản đối chất giữa các bị can với nhau, giữa bị can và bị hại, giữa bị can và người làm chứng, giữa bị hại và người làm chứng. Đối chất là biện pháp cuối cùng khi đã thực hiện hết các biện pháp khác mà không có kết quả, vì vậy khi nghiên cứu phải chú ý đến cách đặt vấn đề của người hỏi và trả lời của người được hỏi (tất cả các bên), ghi chép, đối chiếu rất quan trọng, giúp cho Thẩm phán có thêm cơ sở để đánh giá độ tin cậy trong các lời khai còn mâu thuẫn để từ đó xác định được chứng cứ nào là khách quan, chứng cứ nào là không khách quan. Trên cơ sở đó rút ra được những điểm đã thống nhất giữa những người đối chất và những điểm còn mâu thuẫn cần tiếp tục khắc phục bằng các chứng cứ tài liệu khác.

(iv) Nghiên cứu lời khai của bị hại

Bị hại thường là người trực tiếp chứng kiến hành vi phạm tội; Lời khai của bị hại chứa đựng nhiều tình tiết chứng minh như trị giá tài sản (vụ án xâm phạm sở hữu), vị trí bị đâm, chém... (vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe...) là cơ sở chứng minh hậu quả đã xảy ra do hành vi phạm tội xâm hại. Do vậy, việc nghiên cứu lời khai của họ sẽ giúp cho Thẩm phán nắm được diễn biến của vụ án cũng như các hành vi phạm tội mà bị can đã thực hiện, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, quan điểm của bị hại hoặc nhân thân của họ và yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Khi nghiên cứu lời khai của bị hại, nghiên cứu theo trình tự thời gian mà họ trình bày, chú ý so sánh, đối chiếu các lời khai của bị hại trong các lần khác nhau xem có phù hợp hay mâu thuẫn với nhau, thái độ tâm lý, mối quan hệ của họ đối với người phạm tội như thế nào; đối chiếu giữa lời khai của bị hại với lời khai của bị can và làm rõ mâu thuẫn trong lời khai so với thực tế khách quan và với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án để có hướng giải quyết đúng đắn vụ án, tránh để lọt tội phạm hoặc làm oan sai.

(v) Nghiên cứu lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của bị can, bị hại

Việc nghiên cứu lời khai của những người tham gia tố tụng này cũng tương tự như nghiên cứu lời khai của bị hại, song cần chú ý đến những yêu cầu của họ đối với vụ án để đối chiếu, so sánh với những chứng cứ khác; xác định rõ quyền lợi và trách nhiệm của họ trong vụ án, xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của họ, để có cơ sở giải quyết các vấn đề liên quan đến việc bồi thường trách nhiệm dân sự trong vụ án.

Nghiên cứu tài liệu về nhân thân bị can

Nhân thân của người phạm tội được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt như  tuổi, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn cảnh gia đình, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tiền án, tiền sự… của người phạm tội;

Hồ sơ vụ án có nhiều tài liệu chứa đựng thông tin về nhân thân của bị can như: Lý lịch bị can; Danh chỉ bản; Thông báo kết quả tra cứu (tàng thư); Các tài liệu về tiền án, tiền sự, giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt… (nếu có); Tài liệu xác minh độ tuổi nếu bị can là người dưới 18 tuổi như: Giấy chứng sinh; Sổ hộ khẩu, Kết luận giám định, Giấy khai sinh của đứa trẻ hoặc giấy chứng nhận tình trạng mang thai do cơ quan y tế cấp (nếu bị can là phụ nữ đang có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi).

Nghiên cứu, ghi chép giúp Thẩm phán hiểu rõ về nhân thân, hoàn cảnh gia đình, điều kiện sống của bị can, phát hiện những vấn đề còn mâu thuẫn trong các tài liệu, có ý nghĩa đối với việc định tội cũng như mối liên hệ giữa nhân thân người phạm tội với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, làm sáng tỏ động cơ, mục đích của người phạm tội. Việc xác định tuổi của bị can, bị cáo hết sức quan trọng, bởi lẽ liên quan đến năng lực trách nhiệm hình sự, việc truy cứu trách nhiệm hình sự nên khi tính tuổi phải tính theo tuổi tròn.

Mặt khác nhân thân của bị can là một trong những căn cứ để xác định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Do vậy, trong từng vụ án cụ thể, nếu trong hồ sơ không có đủ các tài liệu này hoặc không có tài liệu phản ánh kết quả xác minh của cơ quan điều tra về những đặc điểm nhân thân của bị can thì cần yêu cầu cơ quan điều tra làm rõ.

Nghiên cứu tài liệu về nhân thân bị hại

Tài liệu chứng minh về độ tuổi của bị hại dưới 18 tuổi: Theo khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH thì việc xác định tuổi của người bị hại dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau: Giấy chứng sinh; Giấy khai sinh; Chứng minh nhân dân; Thẻ căn cước công dân; Sổ hộ khẩu; Hộ chiếu; Kết luận giám định. Giấy chứng nhận của cơ quan y tế về tình trạng mang thai nếu bị hại là phụ nữ có thai.

Nghiên cứu thủ tục tố tụng

Khi nghiên cứu thủ tục tố tụng (các tài liệu về khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các văn bản về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn…) Thẩm phán phải nắm vững các bước (trình tự) tố tụng, các cơ quan ban hành, thời hạn ban hành, thẩm quyền ký ban hành (phê chuẩn) để xem xét tính đúng đắn của quyết định, lệnh... Trong trường hợp phát hiện vi phạm phải báo cáo lãnh đạo Tòa án xem xét đồng thời tự đánh giá tính chất vi phạm để đề xuất phương án xử lý đảm bảo đúng pháp luật.

Nghiên cứu tài liệu về kết quả điều tra

Trong hồ sơ vụ án hình sự, ngoài tài liệu phản ánh về các lời khai còn có nhiều tài liệu phản ánh về kết quả điều tra như: sơ đồ hiện trường; các biên bản khám xét, thu giữ vật chứng, biên bản giao vật chứng, khám nghiệm hiện trường, nhận dạng, thực nghiệm điều tra… Đối với các tài liệu này, trước hết cần phải kiểm tra việc tuân thủ các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục lập biên bản và tiến hành các hoạt động tố tụng này của cơ quan điều tra như: thời gian, địa điểm, thành phần tham gia, việc ký xác nhận vào biên bản, đặc biệt là nội dung phản ánh về hiện trường vụ án bởi lẽ: Hiện trường là nơi xảy ra sự việc có dấu hiệu tội phạm vì thế nó chứa đựng nhiều nội dung quan trọng làm cơ sở giải quyết vụ án, nó thể hiện khách quan nhất những chứng cứ hiện có khi xảy ra sự việc nên nghiên cứu hồ sơ phải chú ý đến hiện trường và phải đối chiếu với biên bản hiện trường xem có sai sót không? Hiện trường có thể hiện trung thực và có phù hợp với lời khai của bị can, bị hại, người làm chứng không...

Nghiên cứu kết luận giám định

Trước hết cần kiểm tra các tài liệu, đồ vật (số lượng, chất lượng các đồ vật, tài liệu cơ quan điều tra gửi đi) mà cơ quan giám định đã xem xét để đưa ra kết luận giám định; Thẩm quyền của tổ chức (Hội đồng) giám định và tính hợp pháp của kết luận giám định. Cần so sánh kết luận giám định với các nội dung yêu cầu giám định và chứng cứ, tài liệu khác của vụ án để xác định độ chính xác, khách quan của kết luận giám định. Trong trường hợp cần thiết phải quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại.

Trong vụ án cố ý gây thương tích thì phải xem giấy chứng thương của bệnh viện mô tả thương tích của người bị hại khi vào bệnh viện như thế nào để xác định được cơ chế hình thành vết thương có phù hợp với hung khí gây án không? Kết luận giám định đã giám định đầy đủ các vết thương trên người nạn nhân chưa.

Nghiên cứu các tài liệu khác

Bên cạnh việc nghiên cứu những tài liệu chính liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự, cũng cần phải nghiên cứu kỹ các tài liệu khác như: Thông báo kết quả điều tra cho đương sự; thông báo kết luận định giá tài sản… thống kê tài liệu có trong hồ sơ và biên bản giao nhận hồ sơ giữa cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát; Biên bản giao nhận hồ sơ giữa Viện Kiểm sát và Tòa án.

Lưu ý, quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự nếu có những vấn đề vướng mắc hoặc chưa rõ, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa có thể trao đổi với Điều tra viên điều tra vụ án đó hoặc Kiểm sát viên kiểm sát vụ án đó để thu thập thông tin, tài liệu làm rõ những nội dung còn vướng mắc hoặc chưa rõ.

Trích tiểu hồ sơ, lập kế hoạch điều khiển phiên toà

Sau khi nghiên cứu hồ sơ, chủ tọa phiên tòa cần trích một tiểu hồ sơ phục vụ cho công tác xét xử tại phiên tòa. Trong tiểu hồ sơ cần thể hiện rõ: Tóm tắt nội dung vụ án, tội danh và điều luật mà Cáo trạng đã truy tố, những mâu thuẫn trong lời khai bị cáo với cáo trạng của Viện Kiểm sát; Tóm tắt lời khai của từng bị cáo phù hợp với nội dung của Cáo trạng và diễn biến của vụ án, được sử dụng như là những chứng cứ buộc tội có các bút lục cụ thể, dùng để đấu tranh kịp thời với bị cáo tại phiên tòa, có thể dùng ngay lời khai của bị cáo này để đấu tranh với các bị cáo khác, nếu vì lý do nào đó mà bị cáo lại chối bỏ lời khai của mình như đã trình bày tại cơ quan điều tra; Tóm tắt các bút lục chứa đựng các chứng cứ buộc tội như biên bản quả tang, kết luận giám định, sổ sách, chứng từ… Tóm tắt các bút lục ghi lời khai của bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bao gồm cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội.

Cùng với việc trích tiểu hồ sơ, thông qua quá trình nghiên cứu hồ sơ Thẩm phán cần thực hiện việc lập kế hoạch điểu khiển phiên toà (kế hoạch xét hỏi) để chủ động trong việc điều hành phiên tòa, phải phân loại các bị cáo, dự kiến các tình huống có thể xảy ra, kể cả trong trường hợp hồ sơ thể hiện các bị cáo khai báo thành khẩn, cần dự lường các tình huống như: Bị cáo (các bị cáo) có thể sẽ phản cung, chối bỏ lời khai của mình tại cơ quan điều tra; Phân loại và đánh giá bị cáo nào khi ra Tòa sẽ khai thành khẩn thì hỏi trước, đôi khi không hỏi bị cáo đầu vụ trước mà có kế hoạch hỏi tất cả các bị cáo có vai trò thứ yếu trước rồi mới có kế hoạch xét hỏi bị cáo đầu vụ sau; Cần phải có những câu hỏi trọng tâm, gợi mở để bị cáo tự khai ra những hành vi phạm tội của mình; Khi đặt câu hỏi cũng cần có kế hoạch đưa ra các tài liệu, chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nếu bị cáo cố tình ngoan cố không chịu khai báo thành khẩn.

Tình huống phát sinh trong nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự, chủ tọa phiên tòa nếu xét thấy cần phải điều tra bổ sung mới đủ căn cứ để giải quyết vụ án thì ra quyết định trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung theo quy định tại Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trường hợp qua nghiên cứu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp quân khu thì phải báo cáo Chánh án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử theo quy định. Trường hợp qua nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự xét thấy rơi vào các trường hợp được quy định tại Điều 281 và Điều 282 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa báo cáo Chánh án Tòa án để ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án.

Như vậy, có thể thấy việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự của thẩm phán có vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thực tiễn cho thấy nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự có ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án hình sự bởi lẽ nếu việc nghiên cứu hồ sơ được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, khoa học sẽ nâng cao chất lượng giải quyết vụ án, ngược lại nếu việc nghiên cứu hồ sơ vụ án được thực hiện qua loa không kỹ, không toàn diện thì chất lượng giải quyết vụ án không cao, có thể dẫn đến án bị hủy, sửa hoặc nghiêm trọng hơn là làm oan sai người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự phụ thuộc vào kỹ năng, phương pháp nghiên cứu hồ sơ, theo đó nếu người nghiên cứu hồ sơ có kỹ năng tốt và phương pháp nghiên cứu chuyên sâu thì chất lượng nghiên cứu, hiệu quả giải quyết vụ án hình sự sẽ được nâng cao; vì vậy phải không ngừng học tập kinh nghiệm của những người đi trước cùng với việc nắm chắc quy định của các văn bản quy phạm pháp luật, các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, các kết luận, hướng dẫn về nghiệp vụ của Tòa án quân sự Trung ương để giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn, chính xác.

                                              Thạc sĩ LÊ ĐÌNH NGHĨA

                                                Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5

Giá tính lệ phí trước bạ đối với nhà ở

Lê Minh Hoàng