Ảnh minh họa.
Trong đó, quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong hoạt động tố tụng, đặc biệt là tố tụng hình sự được ghi nhận cụ thể. Tuy nhiên, trong thực tiễn thực hiện các quyền này thì Luật sư thường xuyên bị cản trở hoạt động nghề nghiệp làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, ảnh hưởng đến hoạt động hành nghề Luật sư, gây ra sự bất bình đẳng trong hoạt động tố tụng... Bởi vậy, trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, ngoài ghi nhận quyền tham gia tố tụng thì việc xây dựng cơ chế đảm bảo thực hiện quyền của Luật sư trong hoạt động tố tụng là cần thiết.
1. Tổng quan hoạt động nghề nghiệp Luật sư theo quy định của Luật Luật sư
Xã hội ngày càng phát triển, Việt Nam hội nhập quốc tế càng sâu rộng thì mỗi cá nhân, tổ chức càng ý thức được vị trí, vai trò của Luật sư trong đời sống xã hội cũng như trong sự phát triển kinh tế, vị trí và vai trò của Luật sư đang ngày càng được nhìn nhận đúng với giá trị vốn có của nó. Hiện nay, đội ngũ Luật sư đã phát triển nhanh về số lượng và chất lượng, thực tế cũng khẳng định vai trò quan trọng của Luật sư trong xã hội. Luật sư ngày càng trau dồi đạo đức nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn, đóng góp hiệu quả vào công tác tuyên truyền, phổ biến và áp dụng pháp luật, góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội.
Sự ra đời của Luật Luật sư đã khiến hoạt động của Luật sư, các tổ chức hành nghề Luật sư và Đoàn Luật sư có bước phát triển mạnh và toàn diện hơn; vị thế Luật sư được nâng lên rõ rệt. Vai trò của Luật sư không chỉ dừng lại ở phạm vi tham gia tố tụng mà còn là tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Dịch vụ pháp lý của Luật sư bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác.
Về tư vấn pháp luật: Tư vấn pháp luật là hoạt động quan trọng và không thể thiếu trong hành nghề Luật sư. Tư vấn pháp luật là việc Luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến, chỉ ra tình trạng pháp luật và giải pháp pháp lý, giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ. Khi thực hiện tư vấn pháp luật, Luật sư phải giúp khách hàng thực hiện đúng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Luật sư thực hiện tư vấn pháp luật trong tất cả các lĩnh vực pháp luật. Đối với hoạt động tư vấn thì Luật sư ít gặp khó khăn, trừ trường hợp tư vấn cho đương sự trong các buổi hòa giải, trong các hoạt động hành chính tư pháp.
Về tham gia tố tụng: Luật sư có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật. Hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật Luật sư. Với hoạt động này Luật sư thường gặp phải nhiều khó khăn, cản trở nhất.
Về hoạt động đại diện ngoài tố tụng của Luật sư, Luật sư có thể đại diện cho khách hàng để giải quyết các công việc có liên quan đến việc mà Luật sư đã nhận theo phạm vi, nội dung được ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc theo sự phân công của cơ quan, tổ chức nơi Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động.
Hoạt động dịch vụ pháp lý khác của Luật sư: Dịch vụ pháp lý khác của Luật sư bao gồm giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại; dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật.
Cụ thể trong hoạt động này, Luật sư tư vấn, soạn thảo hồ sơ và hướng dẫn khách hàng thực hiện công việc liên quan đến các thủ tục hành chính tại các cơ quan chức năng chuyên môn; tư vấn, soạn thảo hồ sơ và thực hiện các công việc liên quan đến dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch kinh tế, thương mại và dân sự cho các công ty, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và cá nhân; hướng dẫn và giúp đỡ khách hàng là công ty, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật,… Thực tế các hoạt động này gặp ít khó khăn hơn do mức độ hoàn thành công việc phụ thuộc vào chuyên môn và khả năng hướng dẫn, giải thích với khách hàng của Luật sư mà không bị tác động nhiều bởi các cơ quan có thẩm quyền.
Trong quá trình hành nghề, Luật sư sử dụng pháp luật để tư vấn, tranh tụng và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác cho thân chủ của mình, đồng thời qua đó tuyên truyền pháp luật để người dân hiểu và tuân theo pháp luật. Luật sư cung cấp đến khách hàng những thông tin pháp lý về các vấn đề mà khách hàng quan tâm, giải thích cho khách hàng hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời định hướng hành vi cho khách hàng để tránh những hậu quả pháp lý bất lợi có thể xảy ra. Mỗi hoạt động hành nghề Luật sư đều hướng tới con người, tư vấn pháp luật, tranh tụng hay thưc hiện các dịch vụ pháp lý khác đều hướng tới con người và vì con người.
2. Một số cản trở trong quá trình hành nghề của Luật sư
Hệ thống pháp luật về hoạt động Luật sư đã dần hoàn thiện, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ Luật sư. Tuy nhiên trên thực tế việc Luật sư bị cản trở trong quá trình hành nghề vẫn diễn ra khá thường xuyên.
Đối với các cơ quan hành chính nhà nước trong các thủ tục hành chính, khi Luật sư đến các cơ quan nhà nước, sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp để thực hiện các thủ tục hành chính, xác nhận, xác minh các thông tin phục vụ cho quá trình làm việc thì thường bị cản trở, gây khó khăn, không hợp tác. Nhiều Luật sư khi đến các cơ quan nhà nước để thu thập thông tin pháp lý về thửa đất đang tranh chấp thì sẽ có nhiều cơ quan đưa ra nhiều lý do từ chối như: Không còn lưu trữ hồ sơ, người phụ trách đi vắng,… Đối với hoạt động đại diện ngoài tố tụng thì do nhận thức pháp luật hạn chế và thái độ lạm quyền nên một số cơ quan, tổ chức, cá nhân không thừa nhận tư cách đại diện ngoài tố tụng của Luật sư dẫn đến tranh cãi, ảnh hưởng đến thủ tục hành chính pháp lý.
Tuy nhiên phải nói rằng hoạt động mà Luật sư gặp phải nhiều cản trở nhất là hoạt động tham gia tố tụng, đặc biệt là khi liên hệ/tham gia làm việc với cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong các vụ án hình sự mà chủ yếu là hoạt động Luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo. Thời gian qua, tình trạng các Luật sư tham gia bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự gặp khó khăn, cản ngại không phải ít. Từ thực tiễn trong quá trình hoạt động nghề nghiệp Luật sư, hầu hết các Luật sư đều nhìn nhận rằng trong suốt quá trình tố tụng điều tra, truy tố, xét xử thì những khó khăn của Luật sư tham gia trong giai đoạn điều tra được phản ánh nhiều nhất. Trong đó, vấn đề Luật sư thường bị cơ quan điều tra gây khó khăn trong việc cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, tham gia hỏi cung bị can, gây ảnh hưởng đến quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra.
Tại giai đoạn điều tra khi thân chủ, bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam thì việc Luật sư đăng ký thủ tục bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự/thủ tục bào chữa thường gặp khó khăn, không được đăng ký hoặc thời gian đăng ký kéo dài với các lý do như: Chưa nhận được thủ tục, đang xem xét, bị can/bị cáo có dấu hiệu bị ép buộc từ chối Luật sư,... Trên thực tế, nhiều Luật sư phản ánh khách hàng của họ phần lớn là thân nhân của những người bị tạm giữ, tạm giam mà không phải là người bị tạm giữ hay bị can vì những người này đang bị tạm giữ, tam giam. Một số Luật sư cho rằng họ thậm chí chưa bao giờ tham gia vào hoạt động bào chữa cho người bị tạm giữ nào vì không được tạo điều kiện trên thực tế. Có thể thấy quyền mời Luật sư phụ thuộc vào ý chí người bị tạm giữ, bị can bị tạm giam. Quy định dẫn đến việc mời Luật sư bào chữa sẽ thu hẹp trong phạm vi giữa người bị tạm giữ, bị can bị tạm giam và cán bộ điều tra, như vậy cũng có nghĩa quyền bào chữa của những người này sẽ bị hạn chế.
Tiếp đó thủ tục xin được gặp bị can đang bị tạm giam cũng gặp nhiều khó khăn. Khi tham gia hỏi cung bị can thì Luật sư thường được thông báo kế hoạch hỏi cung rất gấp, không kịp sắp xếp công việc hoặc khi Luật sư đến thì lại hoãn. Trong giai đoạn điều tra, Luật sư được quyền tham dự với điều tra viên khi lấy lời khai; Luật sư được quyền hỏi bị can nhưng nội dung câu hỏi phải được điều tra viên đồng ý. Chính vì vậy mà việc Luật sư đặt ra câu hỏi gần như hầu hết đều bị điều tra viên từ chối. Đây là “lỗ hổng” của pháp luật khi không quy định rõ những nội dung nào thì Luật sư được hỏi, nội dung nào không được hỏi và bị nghiêm cấm (như câu hỏi có tính chất mớm cung, thông cung…). Quyền được đọc, sao chép và chụp hồ sơ của Luật sư trong giai đoạn điều tra cũng bị cản trở nhất định.
Trong giai đoạn truy tố và xét xử thì Luật sư được quyền gặp bị cáo. Tuy nhiên, pháp luật về quản lý trại giam lại quy định Luật sư không được gặp bị cáo quá 01 giờ; thậm chí khi Luật sư làm việc với bị cáo lại bị bố trí cán bộ quản lý trại giam ngồi theo dõi tại bàn Luật sư làm việc với bị cáo. Đây là quy định bất hợp lý, gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động hành nghề của Luật sư.
Trong quá trình xét xử, khi tham gia tranh tụng thì Luật sư thường bị Chủ tọa phiên tòa hay Hội thẩm nhân dân cắt ngang lời trình bày; nội dung tranh tụng của Luật sư thường không được ghi nhận trong bản án. Ngoài ra, nhiều trường hợp, Luật sư bị đương sự hoặc người nhà của đương sự có quyền lợi đối lập trong vụ án chửi bới, xúc phạm, hành hung, đánh đập tại phiên tòa… nhưng không được các cơ quan bảo vệ pháp luật có thẩm quyền xử lý nghiêm minh.
3. Nguyên nhân của việc Luật sư bị cản trở trong quá trình hành nghề
Những cản trở trong quá trình hành nghề Luật sư xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau:
- Về phía các cơ quan, tổ chức: Thực tiễn cho thấy chỉ đối với những trường hợp cán bộ cơ quan, tổ chức có hiểu biết pháp luật, khách quan, cầu thị và hiểu giá trị hoạt động hành nghề Luật sư, có ý thức tôn trọng Luật sư thì hoạt động nghề nghiệp Luật sư mới gặp thuận lợi, mới thực hiện được các quyền mà pháp luật quy định. Tuy nhiên, thực tiễn một số cán bộ lại có tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, không chịu đổi mới tư duy, không quen với phản biện. Từ trước đến nay, mô hình tố tụng xét hỏi đã ảnh hưởng không nhỏ đến lối suy nghĩ tự làm, kiểm soát mọi thứ của một số cán bộ đều mang tính độc lập bởi trong mô hình tố tụng xét hỏi, Kiểm sát viên và Thẩm phán có vị trí trung tâm, đóng vai trò tích cực trong việc chứng minh vụ án còn Luật sư chỉ có vai trò thứ yếu. Chính vì điều này đã dẫn đến cán bộ thường xuyên tự chứng minh mọi thứ trong những vụ án. Ở một số vụ án đơn giản còn không có sự xuất hiện của Luật sư. Điều này khiến nhiều cán bộ không quen với phản biện. Một số người tiến hành tố tụng trình độ yếu kém, sợ khi Luật sư tham gia vào thì khó khăn trong hoạt động nghề nghiệp, không hoàn thành nhiệm vụ. Bởi Luật sư là những người am hiểu pháp luật và có thể chỉ ra được những sai phạm nên một số cán bộ thường có tâm lý e ngại khi đối diện với Luật sư.
Bên cạnh đó, thói hách dịch cửa quyền, xem thường giá trị của Luật sư vẫn còn tồn tại ở một bộ phận cán bộ, cơ quan, tổ chức. Trong hoạt động xét xử, có những người có cái tâm thiếu trong sáng, không muốn có Luật sư, đồng thời lợi dụng sự thiếu hiểu biết pháp luật của các đương sự để tăng cơ hội tiêu cực, tham nhũng. Vấn đề tham nhũng, nhận hối lộ đã không còn xa lạ gì với xã hội hiện tại. Một số đương sự không hiểu biết pháp luật sẽ thường mang tâm lý lo lắng, sợ hãi và một số đối tượng cán bộ đã nắm bắt được điều này. Họ tận dụng sự kém hiểu biết và tâm lý của người dân nhằm chuộc lợi cho bản thân và sau đó âm thầm có những hành vi không phù hợp quy định pháp luật. Nhưng khi gặp Luật sư - những người am hiểu pháp luật thì cán bộ lại không thể thực hiện được điều đó cho nên họ gây khó khăn khi Luật sư muốn tham gia.
- Về quy định pháp luật: Các văn bản pháp luật đã có nhiều đóng góp tích cực khẳng định tầm quan trọng của Luật sư trong xã hội đồng thời phần nào tạo được một hành lang pháp lý để Luật sư hành nghề. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật này còn thiếu cơ chế để đảm bảo việc thực hiện quyền của Luật sư trong hoạt động nghề nghiệp. Nhiều quy định của pháp luật còn vướng mắc làm ảnh hưởng đến hoạt động nghề nghiệp của Luật sư. Đặc biệt, quy định pháp luật chưa có chế tài xử lý đối với hành vi cản trở hoạt động hành nghề của Luật sư.
4. Giải pháp khắc phục những cản trở đối với hoạt động hành nghề Luật sư
Để hoạt động hành nghề của Luật sư được thuận lợi hơn, cần phải đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện trên thực tiễn. Trong đó cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
- Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để đảm bảo việc thực hiện quyền của Luật sư trong quá trình hoạt động nghề nghiệp. Cần sửa đổi một số quy định pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư thể hiện đầy đủ vai trò của mình. Để đảm bảo tính răn đe, pháp luật nên quy định trách nhiệm pháp lý mà các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải gánh chịu khi không tạo điều kiện để Luật sư thực hiện các quyền của mình hoặc có hành vi cản trở Luật sư trong quá trình hành nghề. Đồng thời, bổ sung các chế tài của pháp luật và quy định về kỷ luật đối với cán bộ công chức viên chức, những người tiến hành tố tụng khi thực hiện các hoạt động cản trở hoạt động nghề nghiệp Luật sư.
- Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật để nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của mọi công dân, đặc biệt là ý thức của cán bộ, những người tiến hành tố tụng.
- Theo quy định của Luật Luật sư thì vai trò, nhiệm vụ hàng đầu của Đoàn Luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam là đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Luật sư trong hành nghề. Do đó cần nêu cao vai trò, trách nhiệm của Đoàn Luật sư, Liên đoàn Luật sư và các tổ chức hành nghề Luật sư trong việc bảo vệ Luật sư trong quá trình hành nghề. Đoàn Luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần thường xuyên tập hợp ý kiến của giới Luật sư về quy định của pháp luật chưa phù hợp đang cản trở hoạt động nghề nghiệp Luật sư để kiến nghị ban hành, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Những vụ việc cụ thể gây cản trở hoạt động nghề nghiệp của Luật sư thì Đoàn Luật sư và Liên đoàn Luật sư Việt Nam phải kịp thời cử cán bộ tham gia giải quyết và kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền xác minh làm rõ, xử lý nghiêm.
- Cần có cơ chế phối hợp giữa Liên đoàn Luật sư, Đoàn Luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan chức năng trong việc đảm bảo thực hiện quyền hành nghề của Luật sư.
- Cần thống nhất nhận thức, nêu cao vai trò trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ quan hành chính, tư pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tạo điều kiện và tuân thủ các quy định của pháp luật để đảm bảo quyền hành nghề của Luật sư trong các hoạt động hành chính, tư pháp.
- Quy định cụ thể quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện của Luật sư đối với các cán bộ, cơ quan, tổ chức cản trở hoạt động nghề nghiệp Luật sư.
Việc xây dựng cơ sở pháp lý thuận lợi sẽ tạo điều kiện phát triển đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu về Luật sư tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật cho cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ cũng như hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động xét xử. Từng bước hoàn chỉnh hệ thống văn bản điều chỉnh nghề Luật sư, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho nghề Luật sư Việt Nam phát triển, hội nhập khu vực và quốc tế.
Tài liệu tham khảo 1. Luật Luật sư năm 2006; 2. Luật Luật sư sửa đổi năm 2012; 3. Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam; 4. Lê Văn Cao (2010), “Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”, Học viện Tư pháp, Hà Nội; 5. Nguyễn Văn Tuấn (2011), “Khái niệm, phạm vi dịch vụ pháp lý và hành nghề Luật sư”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề về Luật sư; 6. Hoàng Thị Thương, “70 năm tổ chức và hoạt động nghề Luật sư Việt Nam”, Tạp chí Nghề Luật, Số chuyên đề kỷ niệm 70 năm thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tháng 8/2015, tr.68-72. |
Tiến sĩ, Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG
Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp
Yêu cầu thí sinh cam kết đặt nguyện vọng 1 hay ‘đặt cọc’ là vi phạm quy chế