/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Một số kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới

Một số kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới

25/08/2025 07:00 |

(LSVN) - Phổ biến, giáo dục pháp luật là một hoạt động cơ bản, có tầm quan trọng đặc biệt đối với một đất nước văn minh cần được quy định chặt chẽ, khoa học, phù hợp trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật. Nếu học tập, hiểu biết pháp luật được xác định là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân thì giáo dục, phổ biến, giải thích pháp luật là những nhiệm vụ không thể thiếu của mọi nhà nước. Sự hiểu biết pháp luật và ý thức sống, làm việc theo pháp luật của các tổ chức và công dân chính là thước đo để đánh giá chất lượng, hiệu quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật và cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng, hiệu quả của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.

I. Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật là cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

Pháp luật là một trong những công cụ quan trọng, không thể thiếu trong điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội giai đoạn hiện nay. Vì vậy, quốc gia nào hiện nay cũng chú trọng ban hành pháp luật và đòi hỏi các tổ chức, cá nhân phải tôn trọng, thực hiện pháp luật nghiêm minh, công bằng, nhất quán, hiệu lực, hiệu quả. Muốn làm được như vậy, điều đầu tiên là phải làm sao cho các tổ chức, cá nhân biết được nội dung, tinh thần các quy định pháp luật. Từ thời Lamã cổ đại người ta đã đề cao tinh thần: “Nemo censetur ignorare legem” (tạm dịch là không ai là không biết pháp luật), mỗi người dân, mỗi tổ chức trong quá trình tồn tại, phát triển, sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt đều phải hiểu biết pháp luật để làm theo pháp luật. Khi đã hiểu biết pháp luật thì tổ chức, cá nhân sẽ mạnh dạn, chủ động làm những gì pháp luật cho phép, không dám làm những gì pháp luật cấm, trật tự xã hội sẽ được tôn trọng, bảo vệ, các tổ chức, cá nhân ứng xử với nhau trên cơ sở văn hoá pháp luật.

Để có được những yêu cầu trên thì phải thường xuyên tiến hành phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý cho cán bộ và nhân dân, tạo thói quen và ý thức sống, làm việc theo pháp luật.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Phổ biến pháp luật là sự truyền tải có định hướng, có mục đích những thông tin pháp luật đến các đối tượng nhất định. Đối tượng được phổ biến pháp luật là những tổ chức, cá nhân cần phải nắm vững về nội dung, những thông tin thiết thực, bức xúc, sự cần thiết trước mắt phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, trao đổi, sinh hoạt của họ như nội dung các chính sách pháp luật, các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, nội dung các điều ước quốc tế, các hoạt động pháp luật trong đất nước... Việc phổ biến pháp luật bao giờ cũng phải được thực hiện đối với những đối tượng nhất định, với những nội dung có chủ định trước, nhằm đạt được những mục đích nhất định. Chẳng hạn, việc phổ biến các quy định của Luật thuế nông nghiệp đến những người nông dân để họ nắm được và thực hiện chính xác, đầy đủ. Luật thuế thu nhập cần phổ biến đến những đối tượng phải nộp thuế để họ thực hiện đúng, chính xác. 

Giáo dục pháp luật là sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới nhận của con người nhằm trang bị cho họ một trình độ tri thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật. Giáo dục pháp luật là sự truyền tải thông tin không chỉ có tính chất thời sự, trước mắt mà là một quá trình tác động lâu dài phụ thuộc vào năng lực các loại chủ thể, nội dung, hình thức giáo dục... và còn chịu sự chi phối đa chiều của nhiều yếu tố như: mặt bằng kinh tế, xã hội, dân trí và dân trí pháp lý, phong tục, tập quán... Mục đích của giáo dục pháp luật được xem xét trên nhiều góc độ tùy thuộc vào đối tượng giáo dục, cấp độ giáo dục cũng như hình thức giáo dục... 

Mục đích cụ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật thể hiện ở những điểm cơ bản sau: Làm sâu sắc và mở rộng hệ thống trí thức pháp luật của tổ chức, cá nhân (mục đích nhận thức); hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp luật (mục đích cảm xúc); hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự hợp pháp, tích cực (mục đích hành vi). Những mục đích trên có mối liên hệ qua lại thống nhất với nhau từ nhận thức đến tự giác, từ tự giác đến tích cực và từ tích cực đến thói quen xử sự hợp pháp.

Như vây, phổ biến, giáo dục pháp luật là những hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật tác động lên đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành. Với mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật như vậy, nên Nhà nước ta đã ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật để củng cố cơ sở pháp lý cho công tác này được tiến hành có hiệu quả.     

Kể từ khi được ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đã là cơ sở pháp lý vững chắc làm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đi vào nề nếp, có chất lượng và hiệu quả, ý thức pháp luật của tổ chức và người dân ngày càng được nâng cao từng bước đáp ứng nhu cầu xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước và xã hội pháp quyền ở Việt Nam.

Tuy vậy, để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức sống, làm việc theo pháp luật của các tổ chức và cá nhân ở Việt Nam. 

II. Một số ý kiến liên quan đến sửa đổi, bổ sung Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới

Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 có thể coi là Luật có tính chất chuyên ngành so với Luật Giáo dục năm 2019 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, nhưng xét về mặt thời gian thì Luật Giáo dục năm 2019 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 được ban hành sau nên đã được hoàn thiện hơn rất nhiều. Do vậy, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật cần được sửa đổi cho phù hợp với hai luật trên và phù hợp với tình hình mới, nhất là các quan điểm của Đảng đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật thể hiện trong Nghị quyết số 27- NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. 

Dưới đây là một số ý kiến có tính chất cảm tính của cá nhân liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012.

1. Về quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân

Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 trong phạm vi điều chỉnh (Điều 1) quy định: “Luật này quy định quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân; nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và các điều kiện bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật”, nhưng trong nội dung của Luật lại chủ yếu quy định về nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và các điều kiện bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Còn quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân quy định chưa chi tiết. Nội dung “quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân” chỉ được quy định trong Điều 2. “Quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân

1. Công dân có quyền được thông tin về pháp luật và có trách nhiệm chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật.

2. Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền được thông tin về pháp luật”.

Việc quy định ngắn gọn như vậy sẽ rất khó thực hiện, bởi quyền được thông tin về pháp luật bao gồm những nội dung gì? Trách nhiệm chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân sẽ được nhận thức và thực hiện như thế nào? Nếu công dân không “chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật” thì có hệ quả pháp lý gì không? Những cơ quan, tổ chức nào của Nhà nước có nghĩa vụ cung cấp thông tin pháp luật cho người dân? Những thông tin nào được cung cấp, những thông tin nào bị giới hạn? Cơ quan, tổ chức, cá nhân cụ thể nào có trách nhiệm bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện được quyền thông tin về pháp luật?  

Việc quy định như vậy cũng làm cho nội dung của Luật không cân đối. Do vậy, trong Luật sửa đổi cần quy định chi tiết hơn về quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân.

Phấn đấu để việc tìm hiểu pháp luật, sống, làm việc theo Hiến pháp, pháp luật trở thành nhu cầu tự thân của mỗi tổ chức, cá nhân thì khi đó công tác phổ biến, giáo dục và học tập pháp luật mới thực sự hiệu quả. 

2. Về sự thống nhất giữa Luật Phổ biến giáo dục pháp luật với Luật Giáo dục và Luật Tiếp cận thông tin 

Khi quy định về quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật cách tiếp cận cần phải thống nhất với cách tiếp cận “quyền và nghĩa vụ học tập” của công dân (Điều 39 Hiến pháp năm 2013 và Luật Giáo dục năm 2019) và “quyền tiếp cận thông tin” (Điều 25 Hiến pháp năm 2013 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016). Nói khác đi Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Giáo dục và Luật Tiếp cận thông tin đều nói đến quyền của công dân liên quan đến lĩnh vực pháp luật nên cần có sự liên kết, thống nhất chặt chẽ với nhau. Luật Phổ biến giáo dục pháp luật chưa có cách tiếp cận thống nhất với Luật Giáo dục và Luật Tiếp cận thông tin. Do vậy, trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật có thể quy định là: “Việc thực hiện quyền được thông tin về pháp luật của công dân được tiến hành phù hợp với quyền tiếp cận thông tin trong Luật Tiếp cận thông tin”. Còn “việc thực hiện trách nhiệm chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân được tiến hành phù hợp với nghĩa vụ học tập của công dân trong Luật Giáo dục”.

3. Về Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật 

Điều 10 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật quy định nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật chung bao gồm:

"1. Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành.

2. Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế.

3. Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện pháp luật".

Thiết nghĩ Điều 10 nên quy định mở hơn, nghĩa là ngoài những nội dung trên có thể thêm cụm từ “và những nội dung pháp luật cần thiết khác”. Nội dung pháp luật cần thiết khác này sẽ do các chủ thể phổ biến, giáo dục xác định cho phù hợp với thời điểm và đối tượng được phổ biến, giáo dục hoặc do đối tượng được phổ biến, giáo dục đề xuất theo yêu cầu của họ cho thiết thực. Bởi nhu cầu thông tin về pháp luật của người dân rất đa dạng, do vây, nên có sự phân loại trong nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cho các nhóm đối tượng khác nhau theo tinh thần “phổ biến, giáo dục những gì mà người dân cần”. 

Để hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật được tiến hành thuận lợi, có hiệu quả cần xác định nội dung cho phù hợp với đối tượng cần phổ biến, giáo dục, loại hình và cấp độ phổ biến, giáo dục. Nội dung và mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật có quan hệ hữu cơ với nhau. Do vậy, với mỗi loại đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải có nội dung, chương trình, hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục khác nhau nhằm định hướng cả về tri thức, tình cảm và hành vi cho đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật. 

Nội dung phổ biến pháp luật không nên chỉ dừng lại ở việc thông tin về pháp luật, mà còn bao hàm cả việc truyền bá các chính sách, các chủ trương của Đảng, Nhà nước về một vấn đề gì đó, nhất là đối với những chính sách, văn bản pháp luật mới ban hành và cả những hoạt động pháp luật của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Nhìn chung, nội dung của phổ biến, giáo dục pháp luật tương đối rộng, cần thiết kế có tính đặc thù riêng cho từng chương trình sao cho hiệu quả nhất. 

4. Về trách nhiệm phổ biến, giáo dục pháp luật

Thiết nghĩ nên quy định trách nhiệm của các cơ quan truyền thông đại chúng như Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Nhân dân, báo của các cơ quan bảo vệ pháp luật, báo và đài phát thanh, đài truyền hình cấp tỉnh trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện truyền thông của mình. Trong Luật chưa quy định về trách nhiệm đối với các cơ quan này.

5. Về chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật

Đối với chủ thể là Báo cáo viên pháp luật trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật mới chỉ quy định quyền và nghĩa vụ của họ trong phổ biến, giáo dục pháp luật, chưa quy định về trách nhiệm của họ khi họ không hoàn thành được quyền và nghĩa vụ của mình trong phổ biến, giáo dục pháp luật. Thiết nghĩ Báo cáo viên pháp luật là cán bộ, công chức, viên chức và sỹ quan trong lực lượng vũ trang nhân dân được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định công nhận để kiêm nhiệm thực hiện hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nên khi họ không hoàn thành hoặc có vi phạm trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật thì phải chịu trách nhiệm kỷ luật theo pháp luật Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức... hiện hành. Điều này nên bổ sung vào trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.

Luật cũng nên bổ sung về nghĩa vụ của Báo cáo viên không chỉ báo cáo về những hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật mà họ đã tiến hành còn phải báo cáo cả về thông qua các hoạt động thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật họ đã phát hiện ra những thiếu hụt, bất cập gì của hệ thống pháp luật hiện hành để các cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật của đất nước, phát triển hệ thống khoa học pháp lý và khoa học phổ biến, giáo dục pháp luật. 

6. Về giáo dục và học tập pháp luật bắt buộc

Mỗi người dân có quyền được phổ biến, giáo dục pháp luật, song mỗi người dân cũng có nghĩa vụ phải học tập pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật. Do vậy, trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật nên quy định: tổ chức, cá nhân khi sản xuất, kinh doanh, sinh sống... tại Việt Nam thì đều phải có nghĩa vụ hiểu biết, tôn trọng và thực hiện đúng các quy định pháp luật Việt Nam. Từ đó phải quy định, việc phổ biến, giáo dục và học tập pháp luật bắt buộc cho các tổ chức và cá nhân theo chương trình và nội dung tối thiểu chung cho tất cả mội công dân. Ngoài ra, người vi phạm pháp luật ở lĩnh vực nào thì bắt buộc phải học pháp luật trong lĩnh vực đó. Chẳng hạn, người vi phạm luật lệ giao thông ngoài việc bị xử lý hành chính, tuỳ theo tính chất của hành vi vi phạm có thể bổ sung thêm biện pháp bắt buộc phải theo học một chương trình nhất định về luật lệ giao thông; người ngược đãi, hành hạ trẻ em ngoài việc bị xử lý hành chính hoặc hình sự, còn bị buộc phải theo học một chương trình về luật bảo vệ trẻ em... Việc theo học những nội dung pháp luật như nói trên được xem như một biện pháp bổ sung buộc các đối tượng vi phạm pháp luật phải thực hiện. Điều này cần nghiên cứu để thiết kế trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật sao cho bảo đảm tính khả thi. 

Tóm lại, phổ biến, giáo dục pháp luật là một hoạt động cơ bản, có tầm quan trọng đặc biệt đối với một đất nước văn minh cần được quy định chặt chẽ, khoa học, phù hợp trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật. Nếu học tập, hiểu biết pháp luật được xác định là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân thì giáo dục, phổ biến, giải thích pháp luật là những nhiệm vụ không thể thiếu của mọi nhà nước. Sự hiểu biết pháp luật và ý thức sống, làm việc theo pháp luật của các tổ chức và công dân chính là thước đo để đánh giá chất lượng, hiệu quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật và cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng, hiệu quả của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.

GS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN

Trường Đại học Luật Hà Nội

Các tin khác