/ Phân tích - Nghiên cứu
/ Một số vấn đề lý luận về phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp

Một số vấn đề lý luận về phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp

02/10/2025 15:32 |

(LSVN) - Phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một nguyên tắc hiến định có ý nghĩa then chốt, góp phần củng cố hiệu lực và nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia. Quá trình này đòi hỏi phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc cụ thể, đồng thời bảo đảm các điều kiện cần thiết để việc phân công được tiến hành rành mạch và sự phối hợp diễn ra đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả. Vì vậy, cần xây dựng và phát triển cơ sở lý luận vững cho việc hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp quyền lực trong bối cảnh mới ở Việt Nam hiện nay.

1. Đặt vấn đề

Quyền lực nhà nước là khả năng, năng lực của nhà nước để nhà nước áp đặt ý chí của mình (ý chí này vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội) lên các chủ thể trong xã hội trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước. Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ thực hiện quyền hành pháp (Điều 94), Tòa án Nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Việc xác nhận các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một thay đổi quan trọng, tạo điều kiện để làm rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ quyền hạn của mỗi quyền. Theo đó, Hiến pháp năm 2013 tạo nên một bước tiến mới trong việc phân công quyền lực nhà nước. Sự phân định các quyền như vậy là điều kiện cơ bản để Nhân dân giao quyền mà không bị lạm quyền, Nhân dân kiểm soát và đánh giá được hiệu lực và hiệu quả thực hiện các quyền mà mình đã giao. Đồng thời để cho các cơ quan tương ứng được giao quyền đề cao trách nhiệm trong việc thực thi quyền lực nhà nước và tự kiểm tra việc thực hiện quyền lực nhà nước được giao cho mình.

Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 8, nhiệm kỳ khóa XV. Ảnh: Quochoi.vn.

Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 8, nhiệm kỳ khóa XV. Ảnh: Quochoi.vn.

Để làm rõ nguyên tắc tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã nhấn mạnh yêu cầu phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, được thể hiện rõ trong khoản 3, Điều 2 như sau: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới cũng nhận định: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thuật ngữ phân công, phối hợp quyền lực được đặt ra trong mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc thống nhất quyền lực. Về mặt chính trị, quyền lực nhà nước thống nhất bởi Nhân dân. Về mặt tổ chức quyền lực nhà nước thì quyền lực nhà nước thống nhất ở cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân là Quốc hội. Tuy nhiên, trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, quyền lực thống nhất ở Quốc hội không có nghĩa là Quốc hội phải thực hiện mọi loại quyền lực. Để đảm bảo tính chuyên nghiệp, hiệu quả thì Quốc hội phải có sự phân công, phối hợp với các cơ quan nhà nước khác trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước. Từ đó, thông qua hoạt động lập hiến, lập pháp, Quốc hội phân công cho Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Toà án thực hiện quyền tư pháp. Vậy, phân công quyền lực chính là Quốc hội giao một phần/một nhánh quyền lực Nhà nước cho các cơ quan khác nhau đảm nhận, mỗi cơ quan sẽ thực hiện một chức năng chủ yếu, cơ bản của mình, làm cho hoạt động của các cơ quan đó mang tính chuyên môn hóa cao và hướng đến hiệu quả công việc tốt hơn.

Bên cạnh sự phân công quyền lực thì có một hoạt động đi kèm là phối hợp quyền lực giữa các nhánh quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Bởi lẽ, dù mỗi nhánh quyền đã giao cho một cơ quan chủ yếu thực hiện nhưng để đảm bảo tính hiệu quả, quá trình thực hiện các chức năng đó cần có sự hỗ trợ, tận dụng lợi thế của các cơ quan nhà nước khác phù hợp với lĩnh vực, khâu đoạn nhất định trong quá trình thực hiện chức năng của mình. Chẳng hạn, việc thực hiện quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, thế nhưng, Quốc hội cần phối hợp với các cơ quan khác đặc biệt là Chính phủ bởi xuất phát từ chức năng thực hiện quyền hành pháp, Chính phủ nắm bắt được kịp thời nhu cầu của xã hội, thấy được những điểm vướng trong quá trình thi hành pháp luật từ đó đề xuất trình Quốc hội các dự thảo luật mới hoặc kiến nghị sửa đổi luật… một cách hợp lý, sát thực tế.

Như vậy, phân công tất yếu sẽ dẫn đến phối hợp vì không có hoạt động nào nằm biệt lập với các hoạt động khác, mà luôn có sự tương tác với nhau dù ít hay nhiều. Tuy nhiên, cũng phải khẳng định rằng phối hợp không phải là yếu tố quyết định trong thực hiện quyền lực, mà đó là phân công thực hiện quyền lực. Vì thế, nếu không có phân công thì sẽ không có phối hợp thực hiện quyền lực. Phân công, phối hợp nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất ở nhân dân, chính nhân dân là chủ thể quy định sự phối hợp giữa các nhánh quyền lực. Mặt khác, sự phối hợp có tác dụng chế ước kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan để tránh nguy cơ lạm dụng quyền lực nhà nước, hạn chế, tránh xung đột quyền lực. Sự phối hợp còn tạo ra sự hiểu biết, thông cảm lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực, hạn chế những sai sót, khiếm khuyết trong hoạt động của mỗi nhánh quyền lực.

Có thể nói, phân công bảo đảm sự rõ ràng về chức năng, thẩm quyền, tránh lạm quyền; còn phối hợp bảo đảm tính đồng bộ, liên kết, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc nắm chắc cở sở lý luận và vận dụng linh hoạt nguyên tắc này là cơ sở quan trọng để nâng cao chất lượng thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.

2. Vai trò của sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp

Thứ nhất, phân công, phối hợp trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp góp phần thực hiện quyền lực nhà nước một cách thống nhất

Về mặt lý thuyết, trong chế độ dân chủ, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về Nhân dân. Nhân dân ủy quyền (giao quyền) cho Nhà nước để triển khai những hoạt động vì lợi ích chung của nhân dân. Bản chất phối hợp giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp không chỉ là cách thức, lề lối làm việc của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp mà còn đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng, mục tiêu chung của Nhà nước; đảm bảo cho quyền lực nhà nước luôn thống nhất về nhân dân. Qua phân công, phối hợp, mỗi cơ quan được nhân dân trao thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp phải làm đúng, làm đủ và làm có chất lượng, có trách nhiệm đối với các phần việc được giao, tránh tình trạng ôm đồm, bao biện làm thay hoặc chỉ biết đến phần việc của mình mà không quan tâm, phối hợp với cơ quan khác. Mục tiêu cao nhất của sự phân công, phối hợp ấy là bảo đảm mọi hoạt động của bộ máy nhà nước đều hướng tới lợi ích của nhân dân, đúng như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh” (1).

Thứ hai, phân công, phối hợp trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp góp phần hạn chế sự độc đoán, chuyên quyền, lạm quyền, từ đó kiểm soát hiệu quả quyền lực nhà nước

Nguy cơ mang tính phổ biến của những người, những cơ quan cầm quyền là dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền như nhà quý tộc nước Anh Lord Acton (1834-1920) từng khẳng định: “Quyền lực làm con người tha hóa. Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối”.

Bản chất sự phân công giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp là nhằm để tránh tình trạng quyền lực tập trung quá nhiều vào một cơ quan dễ dẫn đến tình trạng độc quyền và lạm dụng quyền lực. Không những thế, sự phân công rõ ràng, hợp lý giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp sẽ tránh được tình trạng chồng chéo và lẫn lộn trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này. Tính liên thông, lệ thuộc lẫn nhau trong quá trình phối hợp sẽ làm giảm nguy cơ, cơ hội để lạm quyền.

Như vậy, sự phân công rõ ràng, mạch lạc giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là cơ sở để tổ chức Đảng, tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân kiểm soát, đánh giá được hiệu quả trong việc thực hiện các quyền mà nhân dân đã trao cho các cơ quan tương ứng, là điều kiện cơ bản để nhân dân giao quyền mà không bị sai quyền, lạm quyền. Mặt khác, sự phân công quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp còn nhằm phát huy tinh thần, trách nhiệm trong việc thực thi quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp của các cơ quan được giao quyền và tự kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện các quyền lực nhân dân đã trao cho.

Thứ ba, sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ giúp tăng cường tính chuyên nghiệp và hiệu quả trong thực hiện quyền lực nhà nước

Phân công thực hiện quyền lực là giao cho một hoặc từng nhóm các cơ quan nhà nước thực hiện một quyền lực (chức năng quyền lực) nào đó, là một quá trình “phân công lao động quyền lực”. Từ đó, tạo nên sự chuyên nghiệp hóa trong việc thực hiện quyền lực nhà nước nhằm nâng cao năng suất lao động trong hoạt động quản lý nhà nước.

Sự phân công giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp suy cho cùng là kỹ thuật tổ chức và thực thi quyền lực một cách chuyên môn, khoa học, hiệu quả. Phối hợp chặt chẽ, đòi hỏi sự kịp thời, chỉn chu của công tác lập kế hoạch thực hiện, xác định cơ quan chủ trì, phối hợp, xác định nguồn lực và các điều kiện đảm bảo khác, công tác chỉ đạo, kế hoạch giám sát, kiểm tra và dự liệu những vấn đề có thể phát sinh. Nếu không thực hiện được điều này thì sự phối hợp sẽ rơi vào tình trạng hình thức, lỏng lẻo, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, không tìm được chủ thể chịu trách nhiệm chính, gây lãng phí nguồn lực và thời gian của xã hội.

Sự phân công hợp lý, khoa học công việc giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước còn tạo ra sự chủ động, linh hoạt, năng động của mỗi cơ quan nhà nước cũng như cả bộ máy nhà nước đối với những công việc được giao. Mỗi cơ quan phải chủ động, tự giác thực hiện tốt phần công việc được giao, đó không chỉ là nhiệm vụ, quyền hạn, mà còn là bổn phận, trách nhiệm, đồng thời cũng là danh dự, niềm tự hào của mỗi cơ quan nhà nước trước các cơ quan nhà nước khác và trước nhân dân. Sự phân công thực hiện quyền lực luôn diễn ra theo chiều ngang giữa các cơ quan nhà nước cùng cấp, theo chiều dọc giữa cùng một loại cơ quan ở các cấp khác nhau. Sự phân công, phối hợp cũng trở thành một tiêu chí quan trọng để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả, hiệu năng của mỗi cơ quan nhà nước trên thực tế.

Thứ tư, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước có tác dụng phát huy hết năng lực, lợi thế của các cơ quan tham gia phối hợp

Như đã phân tích ở trên, mỗi cơ quan nắm giữ một nhánh quyền lực nhưng để thực hiện nhánh quyền lực đó một cách hiệu quả, cơ quan đó cần biết được hạn chế cũng như lợi thế, yêu cầu của việc thực hiện quyền lực đố. Đồng thời phải thấy được các ưu điểm, lợi thế của các cơ quan khác liên quan đến việc thực hiện nhánh quyền lực của mình là gì từ đó đặt ra vấn đề phối hợp hoạt động. Mặt khác, sự phối hợp còn tạo ra sự hiểu biết lẫn nhau, gắn kết chặt chẽ với nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, hạn chế những sai sót, khiếm khuyết trong hoạt động của mỗi cơ quan (2).

3. Nguyên tắc của sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam

Thứ nhất, nguyên tắc phân công rành mạch về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp

Nguyên tắc này được hiểu là, Hiến pháp và pháp luật cần quy định rõ ràng, cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước. Qua đó, phân biệt được cơ quan nắm giữ quyền lực hay cơ quan có quyền lực nào khác với cơ quan có hoạt động liên quan đến nhánh quyền lực đó. Chẳng hạn: Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp thì chỉ có Quốc hội mới có quyền này, các cơ quan khác chỉ tham gia thực hiện hoạt động lập pháp chứ không được xác định là cơ quan thực hiện quyền lập pháp hay có quyền lập pháp như Quốc hội. Sự rành mạch thể hiện ở chỗ, chỉ có Quốc hội mới là chủ thể có quyền quyết định cao nhất, chi phối quá trình làm luật thể hiện ở quyền quyết định chương trình luật, pháp lệnh, quyền thẩm tra các dự luật và quyền thông qua các đạo luật đó. Các chủ thể khác được pháp luật quy định quyền trình dự án luật, đóng góp ý kiến với dự luật… không có tính chất quyết định như Quốc hội.

Tính rành mạch, rõ ràng còn được thể hiện nội dung pháp luật phải đảm bảo không để chồng chéo, mâu thuẫn trong quá trình thực hiện thẩm quyền của các cơ quan nhà nước. Đồng thời cũng không để tình trạng cơ quan nhà nước vừa đá bóng vừa thổi còi.

Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động của các cơ quan khi thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp

Sự phối hợp hoạt động của các cơ quan nhà nước không nên hiểu đơn thuần chỉ là sự liên hệ, trao đổi thông tin, hỗ trợ mang tính thủ tục hoặc hình thức để hoàn thành công việc. Phối hợp theo nguyên tắc chặt chẽ nghĩa là phải có trách nhiệm trong công việc. Điều đó có nghĩa là pháp luật phải quy định rõ quy trình thủ tục trong việc phối hợp và chủ thể phối hợp phải chịu trách nhiệm về chất lượng của hoạt động mà mình được giao phối hợp. Giữ các chủ thể trong quá trình phối hợp công việc phải nhịp nhàng, Chẳng hạn, trong hoạt động lập pháp của Việt Nam, khi Chính phủ phối hợp với Quốc hội để làm luật thì Chính phủ phải có trách nhiệm soạn thảo và trình những dự luật có chất lượng. Muốn vậy, pháp luật quy định rõ quy trình soạn thảo dự luật của Chính phủ phải có những khâu đoạn nào, điều kiện gì, trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan của Chính phủ trong việc thẩm định dự thảo… Xuyên suốt quá trình làm luật phải có sự trao đổi qua lại giữa Chính phủ và Quốc hội thể hiện kết quả thẩm tra của Quốc hội và giải trình tiếp thu ý kiến của Chính phủ.

Thứ ba, nguyên tắc minh bạch và công khai trong hoạt động phân công, phối hợp

Cần thấy rằng, việc thực hiện quyền lực nhà nước trong nhà nước dân chủ luôn đảm bảo yếu tố công khai, minh bạch bởi nguồn gốc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quá trình các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực luôn cần sự giám sát của nhân dân để đảm bảo rằng Nhà nước đang làm đúng chức năng, bổn phận của mình đối với nhân dân. Do vậy, sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp cần phải rõ ràng, người dân được nắm bắt và tiếp cận qua quy định pháp luật, các phương tiện truyền thông, sự tham gia của người dân trong quá trình đó... Tránh tình trạng có sự “phối hợp ngầm” hoặc “thoả thuận không chính thức” là những biểu hiện hoặc chính là cơ hội của làm quyền, tha hoá quyền lực.

Thứ tư, nguyên tắc phân công phải đi đôi với phối hợp

Để phát huy vai trò của phân công và phối hợp quyền lực nhà nước, phải cần lưu ý tránh hai khuynh hướng gây bất lợi cho cả phân công và phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước: Một là, tuyệt đối hóa phân công dẫn đến tình trạng quyền lực bị cát cứ, bị tập trung quá mức vào một cơ quan, có thể rơi vào tình trạng độc đoán, chuyên quyền, phá vỡ nguyên tắc thống nhất của quyền lực nhà nước; Hai là, việc tuyệt đối hóa sự phối hợp sẽ đi ngược lại yêu cầu phân công quyền lực, làm thui chột tính chủ động và chuyên môn hóa cao của từng cơ quan, đồng thời khiến trách nhiệm của các chủ thể trở nên mờ nhạt khi xảy ra sự cố, đẩy quyền lực nhà nước vào tình thế “cha chung không ai khóc”. “Cả hai khuynh hướng, tình trạng đó đều xa lạ với quan điểm, yêu cầu của Đảng, không phản ánh đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức thực thi quyền lực nhà nước theo yêu cầu của tình hình mới” (3).

Thứ năm, phân công, phối hợp trong việc thực hiện giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải thống nhất với các nguyên tắc tổ chức hoạt động khác của bộ máy nhà nước

Các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước là một hệ thống các tư tưởng định hướng có tính thống nhất để đảm bảo mục tiêu chung. Ở Việt Nam, với việc xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc phân công, phối hợp quyền lực phải theo nguyên tắc phù hợp, bổ trợ cho các nguyên tắc như bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhà nước và xã hội, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước.

4. Điều kiện bảo đảm phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam

Thứ nhất, điều kiện bảo đảm về chính trị

Một là, sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện tiên quyết:

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định cơ chế vận hành của hệ thống chính trị: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo này không thay thế vai trò của cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, mà giữ vai trò định hướng, bảo đảm sự thống nhất về mục tiêu, đường lối và chiến lược phát triển. Nhờ đó, cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước mới tránh được tình trạng cát cứ, chia rẽ quyền lực theo hướng đối kháng.

Hai là, tính ổn định chính trị của đất nước là điều kiện nền tảng:

Ở Việt Nam, ổn định chính trị được bảo đảm bởi sự đồng thuận xã hội và vai trò trung tâm của Nhà nước trong phát triển đất nước. Khi nền chính trị ổn định, cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có môi trường thuận lợi để vận hành, hạn chế các xung đột quyền lực và đảm bảo quyền lực thống nhất phục vụ lợi ích nhân dân.

Ba là, trình độ dân chủ và ý thức chính trị của xã hội là yếu tố quan trọng. Nhà nước pháp quyền chỉ có thể hoạt động hiệu quả khi có sự tham gia tích cực của nhân dân, thông qua các cơ chế bầu cử, giám sát, phản biện xã hội. Hiến pháp 2013 (Điều 6 và Điều 28) khẳng định quyền làm chủ trực tiếp và gián tiếp của nhân dân. Khi nhân dân thực sự tham gia quản lý nhà nước và xã hội, sự phân công và phối hợp quyền lực mới được kiểm chứng và điều chỉnh hiệu quả.

Thứ hai, điều kiện bảo đảm về pháp lý

Điều kiện pháp lý là khung khổ quy định để sự phân công, phối hợp quyền lực nhà nước được triển khai minh bạch, chặt chẽ. Điều kiện pháp lý cần được đảm bảo từ đạo luật cơ bản của một nước là hiến pháp và được cụ thể hoá trong các đạo luật về tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước cùng các văn bản dưới luật. Cụ thể:

Trước hết, Hiến pháp 2013 là nền tảng pháp lý tối cao. Hiến pháp đã xác định rõ thẩm quyền, chức năng và cơ chế phối hợp giữa Quốc hội (lập pháp), Chính phủ (hành pháp), Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao (tư pháp). Điều này thể hiện rõ trong các chương: Chương V (Quốc hội), Chương VII (Chính phủ), Chương VIII (Tòa án và Viện kiểm sát). Như vậy, sự phân công không chỉ mang tính chính trị mà còn có cơ sở Hiến định.

Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật chuyên ngành cụ thể hóa Hiến pháp như Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi 2020, năm 2025), Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 (sửa đổi năm 2025), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 (sửa đổi năm 2025). Các đạo luật này quy định chi tiết cơ chế phối hợp và giới hạn quyền hạn giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Thứ ba, điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội

Cơ chế phân công, phối hợp quyền lực chỉ có thể hoạt động hiệu quả khi gắn với điều kiện kinh tế - xã hội, cụ thể:

Một là, trình độ phát triển kinh tế quyết định năng lực của Nhà nước trong tổ chức bộ máy. Khi nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao và bền vững, Nhà nước có nguồn lực tài chính để duy trì hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm cơ sở vật chất, nhân lực chất lượng, tương xứng với nhiệm vụ được giao. Trong những năm gần đây, Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng GDP ổn định khoảng 5 - 8%/năm, qua đó tạo nguồn lực tài chính quan trọng cho việc tăng chi ngân sách. Nguồn lực này đã và đang hỗ trợ mạnh mẽ cho các chương trình cải cách hành chính, đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đặc biệt, mục tiêu tăng trưởng hai con số từ năm 2025 càng mở ra dư địa thuận lợi hơn để phân bổ ngân sách một cách hợp lý, bảo đảm kinh phí thích đáng cho từng nhiệm vụ được giao.

Hai là, điều kiện văn hóa - xã hội cũng ảnh hưởng đến cách thức vận hành quyền lực. Truyền thống văn hóa Việt Nam coi trọng tính cộng đồng, sự đồng thuận và nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Đây vừa là thuận lợi, vừa là thách thức đối với cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước. Một mặt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc đạt được sự thống nhất trong công tác điều hành; tuy nhiên, thách thức nằm ở nguy cơ dẫn đến tình trạng “hòa cả làng” nếu thiếu các cơ chế kiểm soát trách nhiệm cá nhân. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện và nâng cao văn hóa pháp lý, đồng thời đề cao trách nhiệm giải trình và bảo đảm tính minh bạch trong quá trình thực thi quyền lực.

Ba là, trình độ dân trí và pháp luật cũng quyết định sự thành công của phân công, phối hợp quyền lực. Một xã hội có nền giáo dục phát triển, ý thức pháp luật cao trong nhân dân sẽ tạo áp lực xã hội mạnh mẽ đối với bộ máy nhà nước, buộc các cơ quan nhà nước phải hoạt động đúng thẩm quyền, tránh chồng chéo, lạm quyền. “Tập trung xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội” (4) được xem là một trong những đột phá trong công tác thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực và hiệu quả; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng và thi hành pháp luật.

Thứ tư, điều kiện hạ tầng - kỹ thuật

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, yếu tố hạ tầng kỹ thuật đóng vai trò ngày càng quan trọng.

Một là, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước là điều kiện không thể thiếu. Chính phủ điện tử, Quốc hội điện tử, Tòa án điện tử đang từng bước được triển khai; Luật Giao dịch điện tử 2023 tạo hành lang pháp lý cho việc áp dụng công nghệ số trong hoạt động quản lý, điều hành và xét xử. Nhờ đó, việc trao đổi thông tin, phối hợp công tác giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trở nên nhanh chóng, minh bạch và hiệu quả hơn.

Hai là, cơ sở hạ tầng kỹ thuật như mạng viễn thông, hệ thống dữ liệu quốc gia, phần mềm quản lý công việc,v.v… là những công cụ thiết yếu hỗ trợ sự phối hợp, phân công. Chẳng hạn, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và căn cước công dân gắn chip đã giúp kết nối thông tin giữa nhiều cơ quan, giảm thiểu tình trạng “cát cứ” thông tin, đồng thời nâng cao hiệu quả phối hợp trong quản lý.

Ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ là yếu tố then chốt. Các cơ quan nhà nước không chỉ cần đội ngũ cán bộ có chuyên môn pháp lý, quản lý, mà còn cần nhân lực có khả năng vận hành, quản trị hệ thống công nghệ số. Đây là điều kiện đảm bảo sự phối hợp xuyên suốt, hiện đại hóa bộ máy, đồng thời giảm thiểu sự chồng chéo trong phân công, bỏ trống trong quy trách nhiệm.

Tóm lại, để bảo đảm phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, Việt Nam cần một hệ thống điều kiện bảo đảm đa dạng và đồng bộ. Điều kiện chính trị bảo đảm định hướng và sự ổn định; điều kiện pháp lý tạo khuôn khổ hiến định và pháp luật rõ ràng; điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội cung cấp nền tảng phát triển và sự đồng thuận xã hội; điều kiện hạ tầng - kỹ thuật mở ra khả năng hiện đại hóa, minh bạch hóa hoạt động nhà nước. Chỉ khi các điều kiện này được đồng thời bảo đảm và vận hành, cơ chế phân công, phối hợp quyền lực nhà nước mới đạt hiệu quả, qua đó xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

5. Kết luận

Quyền lực nhà nước ở Việt Nam được xác lập trên nguyên tắc thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân. Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật liên quan đã thiết lập nền tảng hiến định và pháp lý để phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, đồng thời quy định cơ chế phối hợp chặt chẽ nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước.

Trong khi phân công là điều kiện tiên quyết để tránh lạm quyền, chuyên quyền, tạo sự chuyên môn hóa và trách nhiệm giải trình; phối hợp là yêu cầu tất yếu để bảo đảm tính đồng bộ, liên thông, phát huy lợi thế của từng cơ quan và hạn chế xung đột quyền lực. Hai nguyên tắc này bổ trợ lẫn nhau, hướng tới mục tiêu chung là phục vụ lợi ích của Nhân dân, củng cố niềm tin xã hội và tăng cường hiệu quả quản trị quốc gia.

Việc thực thi cơ chế phân công, phối hợp quyền lực không chỉ đòi hỏi khung pháp lý đầy đủ, ổn định chính trị và lãnh đạo toàn diện của Đảng, mà còn cần sự tham gia giám sát của nhân dân, nguồn lực kinh tế - xã hội vững mạnh và văn hóa pháp lý minh bạch, trách nhiệm. Chỉ khi các điều kiện đó được bảo đảm, nguyên tắc phân công, phối hợp mới phát huy tối đa vai trò trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới.

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 56

[2] Nguyễn Duy Quốc, 2023, Bàn về nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp, https://btgdv.cantho.gov.vn/vi/news/tai-lieu-nghien-cuu-hoc-tap-bao-cao-vien/ban-ve-nguyen-tac-phan-cong-phoi-hop-va-kiem-soat-viec-thuc-hien-quyen-luc-nha-nuoc-ve-lap-phap-hanh-phap-va-tu-phap-1193.html

[3] Vũ Anh Tuấn, Đại hội lần thứ XIII của Đảng với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, Khoa học Chính trị, số 5, 2021, tr. 7.

[4] Bộ Chính trị: Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tài liệu tham khảo

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

2. Bộ Chính trị: Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới

4. Quốc hội: Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

5. Nguyễn Duy Quốc: Bàn về nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp, truy cập tại: https://btgdv.cantho.gov.vn/vi/news/tai-lieu-nghien-cuu-hoc-tap-bao-cao-vien/ban-ve-nguyen-tac-phan-cong-phoi-hop-va-kiem-soat-viec-thuc-hien-quyen-luc-nha-nuoc-ve-lap-phap-hanh-phap-va-tu-phap-1193.html

6. Vũ Anh Tuấn, Đại hội lần thứ XIII của Đảng với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 5, 2021

PGS.TS. TRẦN QUANG HIỂN

ThS.NCS. ĐẶNG THỊ HOÀI

Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Các tin khác