/ Phân tích - Nghiên cứu
/ Bàn về khung thể chế hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết 226/2025/QH15

Bàn về khung thể chế hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết 226/2025/QH15

19/09/2025 06:37 |

(LSVN) - Khái niệm “doanh nghiệp đổi mới sáng tạo” lần đầu tiên được ghi nhận trong văn bản quy phạm pháp luật – Nghị quyết số 226/2025/QH15 – thể hiện bước tiến quan trọng trong việc thể chế hóa các định hướng chính sách lớn của Đảng về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Bài viết phân tích Nghị quyết này dưới góc độ vai trò của thể chế trong việc hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo hiện nay.

1. Bối cảnh chính sách và thể chế hóa

Các văn kiện quan trọng của Đảng gần đây nhiều lần nhấn mạnh rằng thể chế phải được đặt ở vị trí ưu tiên hàng đầu để thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã khẳng định: “Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là những nội dung trọng tâm, cốt lõi, trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước” [1].

Tiếp đó, Nghị quyết 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới nêu rõ: “Tập trung xây dựng pháp luật về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tạo hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, phi truyền thống (trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khai thác nguồn lực dữ liệu, tài sản mã hóa...)...” [2].

Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cũng đã chỉ rõ: Thể chế, pháp luật còn vướng mắc, bất cập là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến kinh tế tư nhân vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản, chưa thể bứt phá về quy mô, năng lực cạnh tranh và chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng trở thành lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước [3].

Một trong những giải pháp quan trọng được Nghị quyết 68 đặt ra là: “Ban hành khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) đối với công nghệ mới, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới; tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân tham gia nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, dữ liệu lớn, thương mại điện tử, công nghệ tài chính, y tế thông minh…” [4].

Thể chế hóa các chính sách định hướng lớn này, ngày 27/6/2025 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 226/2025/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng, có hiệu lực từ ngày 01/7/2025. Một trong những nội dung trọng tâm của Nghị quyết là hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.

Nghị quyết 226/2025/QH15 đã đưa ra định nghĩa cho cả hai khái niệm này. Trong đó, khái niệm “doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” đã được ghi nhận trước đây tại Nghị quyết 98/2023/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh [5], cũng như tại Nghị quyết 198/2025/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân [6]. Tuy nhiên, khái niệm “doanh nghiệp đổi mới sáng tạo” lần đầu tiên được quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật thông qua Nghị quyết 226/2025/QH15.

Trong phạm vi bài viết này, phần tiếp theo tập trung phân tích khung thể chế được thiết kế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết 226/2025/QH15. Lựa chọn xuất phát từ tính chất đặc thù của loại hình doanh nghiệp này: không giới hạn ở các doanh nghiệp mới thành lập và có tiềm năng tăng trưởng nhanh như doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, mà thường là những doanh nghiệp trưởng thành, có nền tảng vững chắc nhưng liên tục cải tiến và tạo ra giá trị mới. Đây là nhóm doanh nghiệp giữ vai trò trụ cột trong việc hiện thực hóa mục tiêu nâng cao năng suất lao động và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức tại Việt Nam.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

2. Khung thể chế hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết 226/2025/QH15

2.1. Định danh pháp lý

Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 226/2025/QH15 định nghĩa: “Doanh nghiệp đổi mới sáng tạo là doanh nghiệp thực hiện cải tiến sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh, quy trình quản lý trên cơ sở đổi mới công nghệ, sáng tạo tri thức nhằm nâng cao hiệu suất, giá trị gia tăng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chất lượng cuộc sống.”

Các nội hàm chính của định nghĩa này như sau:

- Chủ thể: Áp dụng cho mọi doanh nghiệp, không phân biệt quy mô hay giai đoạn phát triển;

- Hoạt động cải tiến: Bao gồm cải tiến sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh hoặc quy trình quản lý;

- Cơ sở cải tiến: Dựa trên đổi mới công nghệ, sáng tạo tri thức;

- Mục tiêu cải tiến: Nhằm nâng cao hiệu suất, giá trị gia tăng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chất lượng cuộc sống.

2.2. Cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo

Nghị quyết 226/2025/QH15 thiết lập cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo với bốn nội dung trọng tâm sau:

Một là, ưu đãi về thuế đối với hoạt động đổi mới sáng tạo (khoản 1 Điều 7), bao gồm:

- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời hạn 05 năm đầu từ thời điểm phát sinh thuế thu nhập phải nộp đối với thu nhập từ hoạt động đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp đổi mới sáng tạo;

- Miễn thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp cho các cá nhân, tổ chức trong 05 năm kể từ khi họ có khoản thu nhập từ chuyển nhượng vốn góp, quyền góp vốn vào doanh nghiệp đổi mới sáng tạo;

- Miễn thuế thu nhập cá nhân trong 05 năm đầu đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của các chuyên gia, nhà khoa học, cá nhân khi họ thực hiện công việc tại các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo;

Hai là, hỗ trợ không hoàn lại từ ngân sách thành phố Hải Phòng (khoản 2 Điều 7).

- Doanh nghiệp đổi mới sáng tạo có thể được hỗ trợ không hoàn lại đối với: chi phí ươm tạo, phát triển dự án đổi mới sáng tạo, bao gồm: chi phí tổ chức hoạt động tuyển chọn dự án; chi phí thuê chuyên gia; tiền công lao động trực tiếp; dịch vụ hỗ trợ đổi mới sáng tạo; chi phí sử dụng cơ sở kỹ thuật, cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung;

- Doanh nghiệp đổi mới sáng tạo là doanh nghiệp nhỏ và vừa thì các chi phí hỗ trợ không hoàn lại có thể mở rộng hơn, như: hỗ trợ sử dụng cơ sở kỹ thuật, cơ sở ươm tạo, phòng thí nghiệm, phòng thử nghiệm, trung tâm thử nghiệm kiểm định, giám định, khu làm việc chung; tư vấn sở hữu trí tuệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ; hỗ trợ các thủ tục về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng; thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm, mô hình mới; tìm kiếm, lựa chọn, giải mã và chuyển giao công nghệ phù hợp với doanh nghiệp; đào tạo, huấn luyện chuyên sâu.

Ba là, hỗ trợ việc tiếp cận kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển khoa học và công nghệ (khoản 3 Điều 7): Doanh nghiệp đổi mới sáng tạo có thể được thuê trực tiếp kết cấu hạ tầng khoa học và công nghệ không thông qua đấu giá để hoạt động.

Bốn là, đối với doanh nghiệp đổi mới sáng tạo hoạt động trong lĩnh vực trọng điểm và/hoặc tại Khu Thương mại tự do, ngoài các hỗ trợ nêu trên, doanh nghiệp còn được hưởng các ưu đãi đặc thù tương ứng theo quy định tại khoản 4, 5, 6, 7, 8 Điều 7 và Điều 10 Nghị quyết 226/2025/QH15, bao gồm:

- Cơ chế hỗ trợ đào tạo nhân lực, thu hút chuyên gia, đầu tư phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu trong lĩnh vực vi mạch bán dẫn và trí tuệ nhân tạo;

- Quy định thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) đối với công nghệ cao, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới, với phạm vi miễn trừ pháp lý và hỗ trợ rủi ro phù hợp;

- Ưu đãi mạnh về đất đai, thuế thu nhập doanh nghiệp, thủ tục hành chính cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp đầu tư dự án công nghệ cao;

- Quỹ đầu tư mạo hiểm của thành phố Hải Phòng nhằm hỗ trợ vốn, thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm khoa học, công nghệ;

- Tại Khu Thương mại tự do: doanh nghiệp được đơn giản hóa thủ tục đầu tư, cấp phép, xuất nhập khẩu; miễn toàn bộ tiền thuê đất, thuê mặt nước (trừ các dự án xây dựng nhà ở, dự án trên đất thương mại, dịch vụ); áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong 15–30 năm; giảm 50% thuế thu nhập cá nhân cho nhân lực chất lượng cao; được hạch toán chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) gấp đôi; và hưởng cơ chế ưu đãi thương mại, tài chính, ngoại tệ tương đương khu phi thuế quan (đối với các khu chức năng thuộc Khu Thương mại tự do đáp ứng điều kiện khu phi thuế quan).

2.3. Vai trò của khung thể chế hỗ trợ đối với doanh nghiệp đổi mới sáng tạo

Nghị quyết 226/2025/QH15 mới có hiệu lực từ ngày 01/7/2025, do đó chưa tạo ra tác động thực tiễn để đánh giá. Tuy nhiên, dựa trên các quy định về định danh pháp lý và cơ chế hỗ trợ, có thể nhận diện một số vai trò cốt lõi của khung thể chế đối với doanh nghiệp đổi mới sáng tạo như sau:

Thứ nhất, vai trò của việc định danh pháp lý:

- Chính thức hóa một khái niệm vốn trước đây chỉ xuất hiện trong các văn bản định hướng chính sách hoặc các báo cáo, nghiên cứu chuyên đề. Việc ghi nhận trong Nghị quyết của Quốc hội tạo nền tảng pháp lý thống nhất, giúp chuyển hóa khái niệm từ phạm vi nghiên cứu, định hướng sang một cơ sở ràng buộc pháp lý, làm nền cho việc xây dựng và thực thi chính sách.

- Cung cấp căn cứ pháp lý trực tiếp để thiết kế, triển khai và giám sát các cơ chế ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp, bảo đảm các chính sách được ban hành có cơ sở xác định rõ ràng về đối tượng áp dụng.

Thứ hai, vai trò của cơ chế ưu đãi thuế:

- Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 05 năm đầu giúp giảm chi phí khởi đầu, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) vốn có chi phí cao và rủi ro lớn;

- Miễn thuế thu nhập cá nhân trong 05 năm đầu với thu nhập từ tiền lương, tiền công góp phần thu hút nhân lực chất lượng cao;

- Miễn thuế thu nhập trong 05 năm đầu từ chuyển nhượng vốn góp và quyền góp vốn vào doanh nghiệp đổi mới sáng tạo cũng tạo động lực thu hút nguồn vốn đầu tư vào các doanh nghiệp này;

Thứ ba, vai trò của cơ chế hỗ trợ tiếp cận hạ tầng:

Cơ chế thuê trực tiếp kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển khoa học và công nghệ không thông qua đấu giá giúp doanh nghiệp rút ngắn thời gian triển khai dự án, tránh chi phí hành chính, tập trung nguồn lực vào nghiên cứu và đổi mới.

Thứ tư, vai trò của cơ chế hỗ trợ vốn và đầu tư:

Các khoản hỗ trợ không hoàn lại từ ngân sách thành phố kết hợp với việc đầu tư từ Quỹ đầu tư mạo hiểm của Hải Phòng đóng vai trò “vốn mồi”, thu hút nguồn vốn xã hội hóa và nhà đầu tư tư nhân, qua đó tạo động lực hình thành một hệ sinh thái đầu tư đổi mới sáng tạo bền vững.

Thứ năm, vai trò của cơ chế miễn trách nhiệm:

Một điểm đột phá của Nghị quyết 226/2025/QH15 là thiết lập cơ chế miễn trách nhiệm trong thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) các giải pháp công nghệ mới. Cơ chế này tạo dựng một khuôn khổ pháp lý cân bằng: vừa khuyến khích các chủ thể dám chấp nhận rủi ro để đổi mới sáng tạo, vừa bảo đảm hoạt động kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước.

Thứ sáu, vai trò của cơ chế liên thông chính sách hỗ trợ:

Các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo hoạt động trong các lĩnh vực trọng điểm và/hoặc tại Khu Thương mại tự do vừa được hưởng các hỗ trợ riêng biệt cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, vừa thụ hưởng ưu đãi tương ứng của các lĩnh vực hoặc khu vực này. Cơ chế này tạo hiệu ứng cộng hưởng, khuyến khích đầu tư mạnh mẽ hơn.

Thứ bảy, vai trò thí điểm và mở rộng cải cách:

Thành phố Hải Phòng trở thành “phòng thí nghiệm chính sách” để kiểm chứng hiệu quả của các cơ chế hỗ trợ nêu trên. Kết quả thành công sẽ làm tiền đề để nhân rộng chính sách trên phạm vi quốc gia, xây dựng khung thể chế ổn định, đồng bộ cho cộng đồng doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.

3. Thách thức và kiến nghị hoàn thiện khung thể chế

3.1. Thách thức trong xác định doanh nghiệp đổi mới sáng tạo

Mặc dù Nghị quyết 226/2025/QH15 đã đưa ra định nghĩa “doanh nghiệp đổi mới sáng tạo”, nhưng khái niệm này mới chỉ dừng ở mức khái quát và chưa gắn với bộ tiêu chí định lượng cụ thể. Sự thiếu vắng một chuẩn mực chi tiết có thể dẫn tới một số hệ quả:

- Thiếu tính thống nhất trong áp dụng chính sách: Các cơ quan quản lý có thể diễn giải khác nhau về đối tượng được hưởng hỗ trợ, làm giảm hiệu quả thực thi.

- Nguy cơ trục lợi chính sách: Một số doanh nghiệp có thể tìm cách tận dụng kẽ hở để hưởng lợi mà không đáp ứng đầy đủ điều kiện thực chất.

- Khó khăn trong đánh giá hiệu quả chính sách: Khi không có tiêu chí định lượng, việc đo lường tác động, xác định mức độ thành công và xây dựng cơ sở khoa học cho giai đoạn nhân rộng sẽ gặp nhiều hạn chế.

3.2. Kiến nghị xây dựng và áp dụng bộ tiêu chí định lượng

Để khắc phục hạn chế trên, cần xây dựng một bộ tiêu chí định lượng nhằm xác định “doanh nghiệp đổi mới sáng tạo” một cách minh bạch, khách quan và thống nhất. Bộ tiêu chí đề xuất có thể bao gồm:

- Tỷ lệ chi R&D: Doanh nghiệp đầu tư tối thiểu [số phần trăm] doanh thu hàng năm cho nghiên cứu và phát triển;

- Sở hữu trí tuệ: Có bằng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, phần mềm hoặc kết quả R&D được thương mại hóa trong vòng [số năm] gần nhất;

- Kết quả đổi mới: Đưa ra thị trường sản phẩm, dịch vụ mới hoặc cải tiến có giá trị gia tăng rõ rệt ([số phần trăm] giá trị tăng thêm);

- Năng lực tăng trưởng: Doanh thu hoặc thị phần tăng ít nhất [số phần trăm] trong 2 năm liên tiếp nhờ hoạt động đổi mới sáng tạo.

4. Kết luận

Nghị quyết 226/2025/QH15 đánh dấu bước tiến quan trọng trong thể chế hóa chính sách của Đảng về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo: lần đầu tiên, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo được định danh trong văn bản quy phạm pháp luật và đi kèm hệ thống cơ chế hỗ trợ toàn diện về thuế, vốn, hạ tầng, nhân lực, đất đai và thậm chí cả hỗ trợ đặc biệt như miễn trách nhiệm hành chính, dân sự. Đây không chỉ là động lực trực tiếp thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo mà còn góp phần định hình môi trường pháp lý tiên phong, minh bạch và linh hoạt để thử nghiệm các chính sách mới.

Tuy nhiên, để cơ chế hỗ trợ thực sự phát huy hiệu quả, cần sớm xây dựng và áp dụng bộ tiêu chí định lượng, đảm bảo việc xác định doanh nghiệp đổi mới sáng tạo được thực hiện một cách minh bạch và khách quan.

Trong chiến lược phát triển đất nước, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo giữ vai trò “đầu kéo” trong kinh tế tri thức và công nghệ cao. Hoàn thiện khung thể chế hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo vì thế không chỉ là giải pháp chính sách ngắn hạn, mà còn là đầu tư chiến lược, bảo đảm năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Mục 3 Phần I Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia;

[2] Gạch đầu dòng thứ 3, Mục 2 Phần III Nghị quyết 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới;

[3] Phần mở đầu Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân;

[4] Gạch đầu dòng thứ 2,  Mục 4 Phần III Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân;

[5] Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết 98/2023/QH15 ngày 24/6/2023 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh;

[6] Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân.

Thạc sĩ, Luật sư ĐẶNG KIM CHINH

Đoàn Luật sư TP. HCM.

 

Các tin khác