Ảnh minh họa.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự
Theo quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) thì: “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự”. Điều 584 của Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS) thì: "Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác".
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự (trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng) chỉ phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
Một là, phải có thiệt hại xảy ra. Theo đó, thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn hại về tinh thần;
Hai là, phải có hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật là hành vi xử sự cụ thể của con người thực hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với quy định của pháp luật;
Ba là, phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại;
Bốn là, phải có lỗi cố ý hoặc vô ý của người gây ra thiệt hại.
Một số vướng mắc
Việc xác định mức bồi thường tổn thất tinh thần do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe: Về nguyên tắc, mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên tự thỏa thuận. Tuy nhiên, nếu các bên không thỏa thuận được thì đối với trường hợp tính mạng bị xâm phạm thì mức bồi thường tổn thất về tinh thần tối đa không quá 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (khoản 2 Điều 591 BLDS); đối với trường hợp sức khỏe bị xâm phạm thì mức bồi thường tổn thất về tinh thần tối đa không quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (khoản 2 Điều 590 BLDS).
Việc chi phí hợp lý cho việc mai táng: Theo quy định của pháp luật thì chi phí hợp lý cho việc mai táng được hiểu là những chi phí không thể thiếu trong một đám tang, thông thường bao gồm: tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi phí khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng theo thông lệ chung… không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí tế lễ, ăn uống, xây mộ, bốc mộ… Tuy nhiên, tất cả những chi phí trên đều ở mức “hợp lý”. Để đảm bảo điều đó, việc xác định phải dựa trên cơ sở thực tế như hoá đơn, chứng từ hợp lệ, sự xác nhận của cơ quan mai táng hay chính quyền địa phương. Đồng thời, cũng tránh việc tổ chức tang lễ quá linh đình, vượt quá mức thông thường ở địa phương đó.
Nhưng việc xác định chi phí mai táng phí là một vấn đề không đơn giản vì ở mỗi địa phương, vùng miền trên đất nước đều có những phong tục, tập quán riêng. Vì nó mang tính đặc trưng riêng của từng địa phương, từng dân tộc nên việc áp dụng ở các Tòa án cũng chưa có sự thống nhất, mỗi Tòa lại hiểu, tính theo một cách khác nhau; cùng là tổng các khoản chi cho việc mai táng nhưng có Tòa chấp nhận, có Tòa lại không chấp nhận, đặc biệt là các khoản chi cho đám tang như: cơm cúng, kèn trống, phục vụ, mua đất chôn cất, quan tài hỏa táng, loại quách sau hỏa táng, tiền và số lượng xe thuê đưa tang, thuê trọn gói dịch vụ tổ chức tang lễ...
Việc xác định lỗi của bị hại trong vụ án mà bị hại cũng có lỗi: Đối với các vụ án hình sự, tình tiết "người bị hại cũng có lỗi" có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vấn đề bồi thường dân sự. Điều 585 BLDS quy định: "Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại, thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra". Như vậy, đối với các vụ án mà bị hại cũng có lỗi cần phải xác định mức độ, tỷ lệ lỗi của bị hại để xác định mức bị cáo phải bồi thường tương ứng với tỷ lệ lỗi. Nhưng trên thực tế việc xác định mức độ lỗi, tỷ lệ lỗi nhiều vụ án chưa thật chính xác, còn tùy nghi trong việc vận dụng.
Việc xác định tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe: Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm thì chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sĩ. Còn những trường hợp điều trị không theo sự hướng dẫn của bác sĩ, dùng thuốc để điều trị bệnh khác, nằm điều trị ở những phòng dịch vụ đắt tiền... thì chi phí này không được coi là “hợp lý”.
Việc xác định tiền cấp dưỡng: Khi có thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản như: Chi phí cấp cứu, điều trị; chi phí mai táng và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Một số kiến nghị
Từ những vấn đề nêu trên, các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để phù hợp với BLDS hiện hành và giải quyết được các vướng mắc nêu trên theo hướng như sau:
Thứ nhất, cần nâng mức bồi thường tổn thất tinh thần
Đối với trường hợp sức khỏe bị xâm phạm, mức bồi thường tổn thất tinh thần tối đa hiện nay là không quá 50 lần mức lương cơ sở. Tuy nhiên mức này vẫn còn thấp khi đặt trong một số trường hợp cụ thể, ví dụ như: Bị hại bị thiệt hại sức khỏe tới 80%, 90% sức khỏe; bị hại là vận động viên bị thiệt hại sức khỏe và không thể hồi phục được như trước khi bị xâm phạm sức khỏe; diễn viên, ca sĩ bị xâm phạm sức khỏe dẫn đến không thể tiếp tục làm các công việc đó... Do đó, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền nâng mức bồi thường tổn thất tinh thần khi sức khỏe bị xâm phạm lên mức tối đa khoảng 100 tháng lương cơ sở.
Đối với tính mạng bị xâm phạm, mức bồi thường tổn thất tinh thần hiện nay là tối đa không quá 100 lần mức lương cơ sở. Mức này vẫn còn thấp khi đặt trong một số trường hợp cụ thể. Ví dụ như bị hại là con duy nhất trong gia đình; bị hại là con trai duy nhất trong dòng họ; bị hại là người trẻ tuổi… Hơn nữa, khoản 4 Điều 27 của Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 quy định: “Thiệt hại về tinh thần trong trường hợp người bị thiệt hại chết được xác định là 360 tháng lương cơ sở”, nếu so sánh với mức bồi thường về tổn thất tinh thần của BLDS tối đa là 100 tháng lương cơ sở thì mức bồi thường tổn thất tinh thần theo quy định của BLDS hiện nay là thấp. Do đó kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLDS theo hướng tăng mức bồi thường về tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm lên, khoảng 150 tháng lương cơ sở.
Mức tối thiểu đối với khoản tiền bồi thường tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm hiện nay chưa có quy định cụ thể. Tuy nhiên, để phù hợp với mức bồi thường tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm, cần quy định mức bồi thường tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm trên mức tối đa của bồi thường tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm.
Thứ hai, hướng dẫn xác định tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại
Khoản tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại chỉ được quy định một cách chung chung trong Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006, do đó kiến nghị cơ quan có thẩm quyền tiếp tục hướng dẫn nội dung này theo hướng quy định mức tối đa, tối thiểu và cách tính mức bồi thường cho phù hợp với tình trạng sức khỏe của người bị thiệt hại; từng loại thương tích và thời gian bồi dưỡng phục hồi sức khỏe.
Đối với trường hợp sức khỏe bị xâm phạm, đề nghị cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn trong trường hợp nào thì bị hại phải có người chăm sóc khi điều trị, trường hợp nào không cần người chăm sóc; thời gian chăm sóc tối thiểu là bao nhiêu; chi phí cho người chăm sóc và số lần chi phí tàu xe đi lại cho người chăm sóc bị hại...
Ngoài ra, cần có quy định nghĩa vụ cấp dưỡng đối với người bị xâm hại sức khỏe nặng mà họ mất khả năng lao động, không có thu nhập và thực tế trước khi bị xâm phạm họ đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
NGUYỄN TỨ
Thẩm phán Tòa án Khu vực Quân khu 2
Quy định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù: Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện