Ảnh minh họa.
Từ khi Bộ luật Hình sự năm 1986 vừa có hiệu lực ban hành, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã có hướng dẫn về việc áp dụng một số quy định của pháp luật đó là Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ và quy định một chương IX- Một số quy định với người chưa thành niên phạm tội: “Bộ luật Hình sự dành một chương riêng quy định về chính sách và đường lối xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội vì lứa tuổi này còn bồng bột, chưa đủ khả năng để cân nhắc hành vi của mình, còn thiếu kinh nghiệm xã hội và dễ bị ảnh hưởng bởi tác động môi trường xấu bên ngoài….”. Và đến khi Bộ luật Hình sự năm 1999 ra đời thì Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã ra Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP cũng có hướng dẫn việc áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về việc quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội.
Mặc dù đã có hướng dẫn khá chặt chẽ như vậy nhưng qua thực tiễn xét xử cho thấy vẫn còn không ít những trường hợp ra quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi không đúng quy định của pháp luật. Sai sót đó không chỉ ở các Thẩm phán mà còn cả Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa cũng đề nghị không đúng, như khi đề nghị mức hình phạt, trong lời luận tội đề nghị mức hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quá cao hay quá thấp.
Ví dụ: Bị cáo 17 tuổi bị truy tố theo khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy có khung hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù. Do bị cáo là có 02 tình tiết giảm nhẹ và là người dưới 18 tuổi phạm tội, Kiểm sát viên đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để cho bị cáo được hưởng mức án thấp hơn mức khởi điểm của khung hình phạt (07 năm × 3/4 = 05 năm 03 tháng) và đề nghị mức án là từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù và Hội đồng xét xử cũng quyết định hình phạt là 04 năm 06 tháng tù. Trường hợp này, có người cho rằng áp dụng tinh thần của pháp luật với người dưới 18 tuổi phạm tội là vẫn còn nghiêm khắc, mức hình phạt quá cao mà chỉ nên đề nghị mức án từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù; còn một ý kiến khác cho rằng như vậy là xử đúng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
Cho thấy, thông thường việc vi phạm trong thực tiễn xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội xảy ra dưới hai dạng cơ bản: Một là, Tòa án phải “vượt rào cản” quy định của Điều luật (do sự không bao quát hết được các tình huống thực tế của pháp luật) mới bảo đảm sự hợp lý, công bằng trong những trường hợp cụ thể - đây là nguyên nhân khách quan; Hai là, do sự hạn chế về nhận thức pháp luật hoặc cố tình hiểu sai, không đúng tinh thần của quy định pháp luật dẫn đến sự tùy tiện trong việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội – đây là sai sót do nguyên nhân chủ quan. Trong phạm vi bài viết, tác giả chỉ đề cập một số điểm vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật, cụ thể như sau:
1. Một số bất cập của Bộ luật Hình sự cần được sửa đổi, bổ sung
- Thứ nhất: Quy định tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” và “xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” (điểm i, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự) áp dụng cả đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là không phù hợp, chưa thể hiện cao tính nhân đạo về xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội.
Bởi vì, người dưới 18 tuổi phạm tội chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần, nhận thức về hành vi phạm tội thường đơn giản. Chính sách xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội của Nhà nước ta là bảo đảm lợi ích tốt nhất và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, không thiên về mục đích trừng trị. Do đó, theo tôi, cần có quy định loại bỏ việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự này đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, bằng việc bổ sung thêm khoản 3 Điều 52 Bộ luật Hình sự, với nội dung như sau: “3. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội đối với người dưới 16 tuổi và xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội, không áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội”.
- Thứ hai: Với quy định của Bộ luật Hình sự, thì hình phạt cảnh cáo sẽ không thể áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, là không phù hợp.
Mặc dù Điều 98 Bộ luật Hình sự quy định hình phạt cảnh cáo là một trong bốn hình phạt được áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nhưng Điều 34 Bộ luật Hình sự quy định: Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. Trong khi đó, khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự quy định: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, với các quy định trên thì hình phạt cảnh cáo không được áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội; trong khi hình phạt này là hình phạt nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt của nước ta, không hạn chế quyền tự do, hoàn toàn có thể áp dụng đối với người dưới 16 tuổi phạm tội do bị người khác xúi dục, lôi kéo hoặc phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Theo tôi, cần quy định áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội và đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 34 Bộ luật Hình sự với nội dung như sau: “Cảnh cáo được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt”.
- Thứ ba: Về mức hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp chuẩn bị phạm tội là chưa phù hợp.
Khoản 2 Điều 102 Bộ luật Hình sự quy định: Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chuẩn bị phạm tội, không quá các mức phạt tương ứng 1/3 và 1/2 mức hình phạt quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội của điều luật được áp dụng.
Khoản 3 Điều 102 Bộ luật Hình sự quy định: Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chưa đạt, không quá 1/3 và 1/2 mức hình phạt được quy định tại các điều 99, 100 và 101 Bộ luật Hình sự.
So sánh hai điều luật trên thấy rằng, mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi chuẩn bị phạm tội lại cao hơn mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với trường hợp phạm tội chưa đạt. Theo tôi, điều này là bất hợp lý. Bởi vì, đối với từng tội phạm cụ thể quy định trong Bộ luật Hình sự, hành vi chuẩn bị phạm tội bao giờ cũng sẽ có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so với trường hợp phạm tội chưa đạt. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 102 Bộ luật Hình sự như sau:
Điều 102. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 2. Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá 1/4 mức hình phạt được quy định tại các điều 100 và 101 Bộ luật Hình sự. Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá 1/3 mức hình phạt được quy định tại các điều 99, 100 và 101 Bộ luật Hình sự. |
- Thứ tư: Về loại hình phạt áp dụng đối với người nước ngoài dưới 18 tuổi phạm tội.
Điều 37 Bộ luật Hình sự quy định: Hình phạt trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; có thể được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, Điều 98 Bộ luật Hình sự không quy định áp dụng hình phạt trục xuất đối với người nước ngoài dưới 18 tuổi phạm tội.
Theo tôi, quy định này là không hợp lý và cần cần thiết phải bổ sung hình phạt trục xuất để áp dụng đối với người dưới ngoài dưới 18 tuổi phạm tội vào Điều 98 Bộ luật Hình sự.
2. Một số vướng mắc của Bộ luật Hình sự cần có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền
- Thứ nhất: Về nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội - là những quan điểm, tư tưởng của Nhà nước về xử lý người phạm tội lứa tuổi này; nên nhiều nội dung còn chung chung, cần có hướng dẫn của TAND Tối cao để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, công bằng, hiệu quả, đạt được mục đích của hình phạt. Đó là các vấn đề như:
+ Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của họ cần được hiểu thế nào;
+ Trường hợp nào thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội là cần thiết;
+ Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án thích hợp ngắn nhất cần hiểu thế nào và giới hạn của mức án ngắn nhất đến đâu.
- Thứ hai: Về căn cứ quyết định hình phạt.
Khoản 1 Điều 50 Bộ luật Hình sự quy định: Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nhưng không quy định nội hàm: tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội gồm những yếu tố nào; trong khi chưa có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này; dẫn đến việc hiểu và áp dụng có những trường hợp còn cảm tính, chủ quan, không thống nhất. Do đó, TAND Tối cao cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội của Hệ thống Tòa án được thuận lợi, thống nhất và công bằng hơn.
Theo tôi, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bao gồm các yếu tố như: quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại; phương pháp, thủ đoạn, phương tiện, công cụ thực hiện tội phạm; mức độ hậu quả tội phạm đã gây ra; giai đoạn thực hiện tội phạm; vai trò và mức độ tham gia trong vụ án đồng phạm; ý chí quyết tâm thực hiện tội phạm của người phạm tội; lỗi của người phạm tội; động cơ, mục đích của người phạm tội; hoàn cảnh chính trị - xã hội nơi hành vi phạm tội xảy ra…
Về nhân thân người phạm tội, cần đánh giá các yếu tố như: độ tuổi của người phạm tội; tiền án, tiền sự; nghề nghiệp, địa vị xã hội, môi trường sống, học tập, lao động, trình độ văn hóa, khả năng nhận thức của người phạm tội; điều kiện hoàn cảnh gia đình của người phạm tội …
- Thứ ba: Về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự quy định: Trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Trong thực tiễn, việc hiểu và áp dụng quy định về “chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn” của Điều luật này, còn có những quan điểm khác nhau.
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng: Trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật. Nếu áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, thì Tòa án có thể áp dụng bất kỳ hình phạt nào nhẹ hơn mức hình phạt nhẹ nhất của điều luật, nhưng phải đảm bảo các nguyên tắc chung về áp dụng hình phạt đó. Tác giả đồng tình với quan điểm này.
Ví dụ: Đồng Thị K. 17 tuổi, phạm tội “Trồng cây thuốc phiện” thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật Hình sự - là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, với mức phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Nếu áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, Tòa án có thể xử phạt K từ 03 tháng đến dưới 06 tháng tù hoặc áp dụng các hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ. Nhưng không được áp dụng hình phạt tiền, vì không thỏa mãn điều kiện quy định tại Điều 35 Bộ luật Hình sự.
+ Quan điểm thứ hai cho rằng: Trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật. Nếu áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, thì Tòa án chỉ có thể áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn mức hình phạt nhẹ nhất của điều luật hoặc chuyển sang áp dụng loại hình phạt liền kề với loại hình phạt nhẹ nhất của điều luật.
Ví dụ: Cũng trong ví dụ trên, Tòa án chỉ có thể áp dụng đối với K mức phạt từ 03 tháng đến dưới 06 tháng tù hoặc chuyển sang áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.
Việc hiểu và áp dụng pháp luật như trên là không thống nhất, không bảo đảm được sự công bằng giữa các trường hợp phạm tội. Do đó, TAND Tối cao cần có hướng dẫn về vấn đề này.
- Thứ tư: Cần có hướng dẫn về mức hình phạt tù thấp nhất được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Điều 101 Bộ luật Hình sự quy định mức phạt tù cao nhất áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng không quy định cụ thể mức phạt tù thấp nhất, nên còn có quan điểm khác nhau về vấn đề này.
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng: Nếu không áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự (quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt), thì mức hình phạt thấp nhất được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không được thấp hơn mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với họ. Vì Điều 101 Bộ luật Hình sự chỉ quy định mức hình phạt tù cao nhất, mà không quy định mức hình phạt tù thấp nhất được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nên mức hình phạt tù thấp nhất áp dụng đối với họ như người từ đủ 18 tuổi trở lên.
Ví dụ: Nguyễn Văn A. 16 tuổi, phạm tội “Giết người” thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 12 đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình; nếu không áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự thì mức hình phạt áp dụng đối với A. không được quá 18 năm tù và không được thấp hơn 12 năm tù.
+ Quan điểm thứ hai cho rằng: Trường hợp này cần phải hiểu điều luật quy định cả mức cao nhất và thấp nhất áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Vì điều luật quy định nếu là hình phạt tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá (1/2 hoặc 3/4) mức phạt tù mà điều luật quy định. Tác giả đồng tình với quan điểm này.
Ví dụ: Cũng với ví dụ trên, nếu không áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự, thì mức hình phạt áp dụng đối với A không quá 18 năm tù và không được thấp hơn (3/4 x 12 năm tù) = 09 năm tù. Trường hợp áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự, thì mức hình phạt đối với A phải trong khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự, áp dụng đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội là: Từ 05 năm 03 tháng tù (3/4 x 07 năm tù) đến dưới 09 năm tù (3/4 x 12 năm tù).
Trong thực tiễn, do nhận thức khác nhau như trên, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Có trường hợp để an toàn đối với phán quyết của mình, nếu không áp dụng quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì Tòa án sẽ lựa chọn mức hình phạt bằng mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng như đối với người đã đủ 18 tuổi phạm tội, mặc dù hoàn toàn có thể áp dụng mức hình phạt thấp hơn. Điều này, gây bất lợi cho người dưới 18 tuổi phạm tội, không thể hiện được chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội ở lứa tuổi này.
Từ lý do trên, đề nghị TAND Tối cao hướng dẫn cụ thể quy định này như sau:
Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất và mức hình phạt thấp nhất được áp dụng không quá 3/4 mức phạt tù điều luật quy định.
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội, nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất và mức hình phạt thấp nhất được áp dụng không quá 1/2 mức phạt tù điều luật quy định.
- Thứ năm: Điều 99 Bộ luật Hình sự quy định “Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng”.
Như vậy, để áp dụng hình phạt tiền đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, Tòa án phải chứng minh được người phạm tội có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Nhưng nếu chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án không đủ căn cứ chứng minh thì HĐXX có thể không lựa chọn hình phạt tiền, mặc dù xét thấy việc áp dụng hình phạt này là phù hợp. Dẫn đến việc áp dụng hình phạt không thống nhất, không công bằng giữa những người phạm tội.
Từ lý do trên, đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng ở Trung ương hướng dẫn để thực hiện thống nhất, hiệu quả quy định này, theo hướng: Qua trình điều tra, truy tố đối với các tội phạm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện, nếu điều luật quy định có thể áp dụng hình phạt tiền thì cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc phải chứng minh người phạm tội có thu nhập hoặc có tài sản riêng hay không, để Tòa án có cơ sở cân nhắc lựa chọn áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội.
VĂN HOÀNG
Tòa án Quân sự Quân chủng Hải quân
Bàn về vấn đề điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015