/ Trao đổi - Ý kiến
/ Một số vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện về biện pháp tạm giam trong BLTTHS

Một số vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện về biện pháp tạm giam trong BLTTHS

01/01/0001 00:00 |

(LSVN) - Tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử được thuận lợi. Tạm giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do thân thể của công dân.

Ảnh minh họa.

Theo Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 biện pháp tạm giam được quy định như sau:

 Điều 119. Tạm giam

1. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.

2. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:

a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;

c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;

d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;

đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

3. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

4. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp: 

a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;

b) Tiếp tục phạm tội;

c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;

d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

5. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.

6. Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam làm việc, học tập biết.

Những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng

Một là, về căn cứ áp dụng, Điều 119 BLTTHS 2015 quy định về hai trường hợp có thể áp dụng biện pháp tạm giam: Trường hợp thứ nhất là xác định theo phân loại tội phạm một cách độc lập; trường hợp thứ hai là xác định theo phân loại tội phạm cùng với các trường hợp thể hiện sự cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử.

Trường hợp thứ nhất, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam là bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng: Theo tác giả căn cứ này là chưa hợp lý vì việc sử dụng kết quả phân loại tội phạm như một cơ sở độc lập để làm căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam mà không xuất phát từ mục đích áp dụng dẫn đến tình trạng lạm dụng biện pháp tạm giam trên thực tế. Có nghĩa là, biện pháp này có thể được áp dụng trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà không cần chứng minh khả năng trốn tránh, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cũng như khả năng tiếp tục phạm tội của họ. Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng nhưng người phạm tội không trốn tránh và đã ra tự thú, khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình và sẵn sàng chịu hình phạt trước pháp luật trong một số loại tội phạm như: Nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; Nhóm tội phạm về môi trường; Một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu (trừ các tội: Cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp tài sản…); Một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính; Một số tội phạm thuộc nhóm tội phạm về chức vụ và nhóm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Đối với trường hợp này thì không cần thiết phải tạm giam đối với họ. 

Trường hợp thứ hai, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam xác định theo phân loại tội phạm cùng với các trường hợp cụ thể thể hiện sự cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử. Điều luật quy định:

 “2. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp: a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

3. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã”.

Đối với các trường hợp trên thì biện pháp tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ thuộc một trong các trường hợp a, b, c, d, đ khoản 2 của điều luật quy định, còn đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm thì có thể tạm giam bị can, bị cáo “Nếu họ tiếp tục phạm tội và bị bắt theo quyết định truy nã”. Nghĩa là các nhà làm luật đã mặc nhiên thừa nhận rằng đối với các trường hợp BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm thì bị can, bị cáo sẽ không bị tạm giam cho dù thuộc các trường hợp a, b, c, d, đ. Điều này là không đúng trên thực tế, bởi hiện nay, rất nhiều trường hợp tuy phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nhưng người thực hiện hành vi phạm tội vẫn có ý định tiếp tục phạm tội mới hoặc tội phạm mà họ thực hiện mới chỉ là bước đầu để thực hiện một tội phạm nguy hiểm khác. Trong trường hợp này cần tạm giam để khai thác và làm rõ mục đích phạm tội của họ.

Bên cạnh đó, có những trường hợp bị can, bị cáo tuy bị khởi tố về tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù ở khung hình phạt có mức phạt tù dưới 02 năm nhưng ngoan cố chống đối (đặc biệt là các đối tượng lưu manh, chuyên nghiệp, nghiện ma túy,...) cố tình trốn tránh, hoặc tìm mọi cách xóa dấu vết của tội phạm, mua chuộc, đe dọa người làm chứng... thì cơ quan tiến hành tố tụng lại không được phép áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam (BPNCTG), cho dù các biện pháp khác không có giá trị trên thực tế.

Những bất cập thuộc về các quy định của pháp luật liên quan đến căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nêu trên là một trong những điểm đáng lưu ý và cần phải xem xét, sửa đổi cho thống nhất và phù hợp. Việc sửa đổi cũng nhằm nâng cao hơn nữa biểu hiện của việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Bị can, bị cáo chỉ có thể bị hạn chế các quyền tự do bằng BPNCTG khi thỏa mãn các căn cứ được quy định trong BLTTHS và trong trường hợp quy định của pháp luật có mâu thuẫn hoặc chưa được giải thích thống nhất thì phải áp dụng dựa trên nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo.

Hai là, về kỹ thuật lập pháp nói chung, biện pháp ngăn chặn tạm giam đang được quy định trước các biện pháp ngăn chặn khác có tính chất ít nghiêm khắc hơn như bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh và biện pháp này cũng không được quy định độc lập với hai biện pháp bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm. Việc quy định như trên dẫn đến nhận thức rằng việc cân nhắc áp dụng biện pháp tạm giam luôn được đặt ra trước những biện pháp ít nghiêm khắc khác. Chỉ khi không có căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam hoặc có thể thay thế BPNCTG bằng biện pháp khác thì mới cân nhắc tiếp các biện pháp này.

Ba là, về chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam quy định tại khoản 1 Điều 113, theo đó thì những người có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị cáo để tạm giam là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. Theo tác giả thì cần quy định thay đổi, mở rộng theo hướng cho phép những người trực tiếp tiến hành tố tụng (Thẩm phán trực tiếp giải quyết vụ án) ra quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn là phù hợp, bởi vì họ là người trực tiếp nghiên cứu vụ án, trực tiếp tiến hành tố tụng nên có thể xác định sự cần thiết áp dụng BPNCTG hay không, còn Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án Tòa án quân sự các cấp chỉ là chức danh quản lý hành chính của các cơ quan điều tra, VKS, Tòa án, họ chỉ ban hành quyết định thông qua sự đề nghị của những người trực tiếp tiến hành tố tụng. Việc quy định cho phép những người trực tiếp tiến hành tố tụng (Thẩm phán trực tiếp giải quyết vụ án) ra quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn cũng nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu quả của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tránh xảy ra các vi phạm trong áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với người có thẩm quyền.

Bốn là, tại điểm c và điểm d khoản 2 Điều 119 BLTTHS quy định: … khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp “c) … có dấu hiệu bỏ trốn” và “d) … có dấu hiệu tiếp tục phạm tội…”. Trong trường hợp này các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trực tiếp nghiên cứu, giải quyết vụ án dựa vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xác định căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo. Nhưng trong thực tiễn, việc áp dụng các căn cứ này để tạm giam bị can, bị cáo còn nhiều khó khăn vì trong nhiều trường hợp không thể áp dụng BPNCTG vì không có căn cứ xác định người phạm tội thuộc các trường hợp mà Điều 119 BLTTHS quy định, việc xác định “có dấu hiệu bỏ trốn, có dấu hiệu tiếp tục phạm tội” chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể về các dấu hiệu này. Điều này làm cho những người tiến hành tố tụng lúng túng trong việc áp dụng BPNCTG vì việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam không đúng sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bị can, bị cáo.

Kiến nghị hoàn thiện

Từ những đánh giá phân tích trên, tác giả có đề xuất một số kiến nghị sau:

Một là, có thể nghiên cứu để hạn chế việc tạm giam bị can, bị cáo đối với một số loại tội phạm như: Nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; Nhóm tội phạm về môi trường; Một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu (trừ các tội: Cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp tài sản,…); Một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính; Một số tội phạm thuộc nhóm tội phạm về chức vụ và nhóm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, thay vào đó là tăng cường hiệu quả áp dụng của các biện pháp ngăn chặn khác như bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú,…

Bên cạnh đó, việc quy định biện pháp tạm giam cũng cần phải sửa đổi cho phù hợp với thực tế hiện nay, tác giả kiến nghị Điều 119 BLTTHS có thể quy định như sau:

“Điều 119. Tạm giam

1. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp: a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này”.

Hai là, việc quy định về tính độc lập cũng như cách sắp xếp BPNCTG với các biện pháp ngăn chặn khác. Hiện nay, BLTTHS Việt Nam đang sắp xếp BPNCTG trước các biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Đồng thời cách quy định về căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn này cũng đang theo hướng nếu các căn cứ áp dụng BPNCTG không thỏa mãn hoặc không còn cần thiết thì mới cân nhắc đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không tước tự do. Cách quy định này thực sự chưa mang tính khách quan và độc lập giữa các biện pháp ngăn chặn. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không tước tự do của người phạm tội không phải là một biện áp thay thế BPNCTG mà có các căn cứ cụ thể, tương xứng với tính chất, mức độ thực hiện hành vi của người phạm tội.

Như vậy, theo đúng logic, các cơ quan có thẩm quyền phải cân nhắc căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác trước khi cân nhắc căn cứ áp dụng BPNCTG. Do vậy, theo tác giả cần sắp xếp lại thứ tự các biện pháp ngăn chặn theo hướng tăng dần về mức độ nghiêm khắc cũng như về mức độ ảnh hưởng đến quyền tự do của người bị áp dụng. Bên cạnh đó cần quy định bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm trở thành hai biện pháp độc lập so với BPNCTG, để hai biện pháp này có thể được áp dụng khi có đủ điều kiện áp dụng hoặc có thể thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam khi các căn cứ để tạm giam không còn.

Thứ ba, về việc mở rộng thẩm quyền áp dụng BPNCTG cho Thẩm phán nghiên cứu, xét xử vụ án. Theo quy định trong BLTTHS của một số nước trên thế giới thì Thẩm phán cũng có thẩm quyền áp dụng BPNCTG. Theo ý kiến của tác giả thì BLTTHS Việt Nam có thể tiếp thu kinh nghiệm của các nước để mở rộng thẩm quyền áp dụng BPNCTG theo hướng quy định Thẩm phán được phân công nghiên cứu, xét xử vụ án cũng có quyền áp dụng BPNCTG nhằm đề cao vai trò, trách nhiệm của Thẩm phán và bảo đảm tính kịp thời khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn.

Thứ tư, cần có văn bản hướng dẫn về các quy định tại điểm c và điểm d khoản 2 Điều 119 BLTTHS: … khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp “c) … có dấu hiệu bỏ trốn” và “d) … có dấu hiệu tiếp tục phạm tội…”. Hướng dẫn về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam khi các dấu hiệu này cần sự đánh giá, phân tích một cách khách quan, toàn diện trên cơ sở nhân thân, điều kiện kinh tế, tình trạng sức khỏe của người phạm tội… bới các dấu hiệu bỏ trốn hay tiếp tục phạm tội nằm trong ý thức chủ quan của người phạm tội.

TRẦN CÔNG TUẤN ANH

Tòa án Quân sự Khu vực Quân khu 1

Một số điểm mới trong dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)

Lê Minh Hoàng