(LSO) - Tham nhũng hiện nay đang là vẫn nạn tại mỗi quốc gia và hối lộ là môt trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các thành phần kinh tế tư nhân của Việt Nam cũng ngày càng phát triển với quy mô hoạt động và tầm ảnh hưởng lớn. Điều này không chỉ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội mà còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật, tội phạm trong khu vực trong và ngoài Nhà nước ngày một diễn biến phức tạp, đặc biệt là tình trạng đưa, nhận hối lộ.
Tội đưa hối lộ
Hành vi khách quan của tội phạm được quy định là hành vi trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác, tổ chức khác bất kì lợi ích nào. Lợi ích có thể là tiền, tài sản hoặc lợi ích khác. Việc đưa hối lộ diễn ra rất đa dạng, có thể đưa trực tiếp, cũng có thể đưa qua trung gian một hoặc nhiều người.
Đối tượng được đưa hối lộ có thể là người có chức vụ, quyền hạn, người khác hoặc tổ chức.
Người phạm tội đưa hối lộ là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. Tội đưa hối lộ không phải là chủ thể đặc biệt, người phạm tội không nhất thiết phải là người có chức vụ trong chương “các tội phạm về chức vụ”. Tuy nhiên, người phạm tội đưa hối lộ cũng có thể là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để đưa hối lộ, nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này.
Tội đưa hối lộ được quy định tại Điều 364 Bộ Luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với 04 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung.
Khung hình phạt cơ bản được quy định cụ thể: Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; Lợi ích phi vật chất.
Ba khung hình phạt tăng nặng được quy định là hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, từ 07 năm đến 12 năm và từ 12 năm đến 20 năm.
Các dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng được quy định chủ yếu là dấu hiệu về trị giá của tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Ngoài ra, còn có dấu "có tổ chức"; "dùng thủ đoạn xảo quyệt"; "dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ"; "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn";...
Khung hình phạt bổ sung được quy định (có thể được áp dụng) là hình phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng.
Nếu người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
Trong trường hợp Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
Người nào đưa hoặc sẽ đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng bị xử lý theo quy định tại Điều này.
Tội nhận hối lộ
Chủ thể của tội này được quy định là chủ thể đặc biệt, là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức nhà nước và doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước, từ đủ 16 tuổi trở lên và không trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Đây là những người làm việc trong lĩnh vực công (Nhà nước). Chủ thể của Tội nhận hối lộ cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: Độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các điều 12, 21 BLHS năm 2015.
Tuy nhiên, theo khoản 6 Điều 354 BLHS, người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng có thể được coi là chủ thể của tội nhận hối lộ.
Hành vi khách quan của tội nhận hối lộ được quy định là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác (vật chất hoặc tinh thần) cho mình, cho người hoặc tổ chức khác. Thủ đoạn nhận hối lộ có thể nhận trực tiếp từ người đưa hối lộ hoặc qua nhiều người trung gian, có thể nhận trước hoặc nhận sau khi "giải quyết công việc".
Điều 354 BLHS quy định 4 khung hình phạt chính và 1 khung hình phạt bổ sung.
Khung hình phạt cơ bản được quy định là hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm trong trường hợp người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: Có tổ chức; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn; Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng358 đến dưới 3.000.000.000 đồng; Phạm tội 02 lần trở lên; Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước; Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm: Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên; Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.
Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này.
Tội môi giới hối lộ
Tội môi giới hối lộ được quy định tại Điều 365 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Cũng như đối với tội đưa hối lộ, chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, người phạm tội không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn và cũng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Việc nhà làm luật quy định tội phạm này trong chương “các tội phạm về chức vụ” là vì khách thể của tội phạm chứ không phải vì chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, người phạm tội làm môi giới hối lộ cũng có thể là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm môi giới hối lộ, nhưng không phải là bắt buộc đối với tội phạm này.
Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người không có chức vụ, quyền hạn thì họ chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này khi đủ tuổi (16 tuổi trở lên) và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Theo đó, người nào môi giới hối lộ mà của hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; Lợi ích phi vật chất.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: Có tổ chức; Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; Dùng thủ đoạn xảo quyệt; Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Phạm tội 02 lần trở lên; Của hối lộ trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Phạm tội thuộc trường hợp của hối lộ trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Phạm tội thuộc trường hợp của hối lộ trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng.
Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Người nào môi giới hối lộ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng bị xử lý theo quy định tại Điều này.
LSO