/ Trao đổi - Ý kiến
/ Một số nội dung cần lưu ý tại Nghị quyết số 01/2021/NQ-HĐTP

Một số nội dung cần lưu ý tại Nghị quyết số 01/2021/NQ-HĐTP

05/04/2022 15:48 |

(LSVN) - Cho vay lãi nặng trong thời gian gần đây ngày càng xuất hiện nhiều tại các địa phương với nhiều thủ đoạn tinh vi, phức tạp nhằm qua mặt các cơ quan chức năng, như lập các công ty tài chính trá hình, lợi dụng sự khó kiểm soát khi sử dụng mạng xã hội, ứng dụng công nghệ thông tin… để lôi kéo người vay nhẹ dạ, cả tin đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội và gây nhức nhối trong dư luận quần chúng nhân dân.

 Luật sư Hoàng Phương Trang.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do giữa các cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa thống nhất về việc áp dụng pháp luật đối với Điều 201 Bộ luật Hình sự (BLHS). Để kịp thời hạn chế, bất cập nêu trên, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2021/NQ-HĐTP ngày 20/12/2021 hướng dẫn áp dụng Điều 201 BLHS và việc xét xử vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, có hiệu lực thi hành từ ngày 24/12/2021. Nghị quyết có một số nội dung đáng lưu ý như sau: 

Hướng xử lý trong trường hợp cho vay không phải bằng tiền Việt Nam đồng và hướng dẫn xác định “thu lợi bất chính”

Thực tiễn các cơ quan tiến hành tố tụng còn thiếu thống nhất trong khi xử lý trường hợp vay ngoại tệ, vàng, kim khí, đá quý hoặc tài sản khác và cách hiểu khác nhau về “thu lợi bất chính”. Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, Điều 2 Nghị quyết đã hướng dẫn: “Cho vay lãi nặng” là trường hợp bên cho vay cho bên vay vay tiền với mức lãi suất gấp 05 lần trở lên mức lãi suất cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự (BLDS). Trường hợp cho vay bằng tài sản khác (không phải là tiền) thì khi giải quyết phải quy đổi giá trị tài sản đó thành tiền tại thời điểm chuyển giao tài sản vay;

“Thu lợi bất chính” là số tiền lãi vượt quá mức lãi suất vay cao nhất theo quy định của BLDS và các khoản thu trái pháp luật khác của người vay. Trường hợp thu lợi bất chính là tài sản khác (không phải là tiền) thì phải được quy đổi thành tiền tại thời điểm chuyển giao tài sản vay.

Xác định tư cách tố tụng của người vay

Người vay tiền không phải là bị hại trong vụ án. Do người vay trong vụ án cho vay lãi nặng cũng có phần lỗi trong giao dịch khi đã tự nguyện xác lập giao dịch dân sự trái pháp luật, chấp nhận mức lãi suất và số tiền lãi phải trả theo thỏa thuận với người cho vay. Số tiền lãi người vay phải trả không thể được xem là tài sản bị tội phạm chiếm đoạt mà phải được xem là khoản thu lợi bất chính do phạm tội mà có. 

Điều 4 Nghị quyết đã hướng dẫn: “Trong vụ án hình sự, người cho vay bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo Điều 201 của BLHS thì người vay tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan".

Việc xác định số tiền thu lợi bất chính để xử lý trách nhiệm hình sự

Tại Điều 6, Nghị quyết quy định việc xác định số tiền thu lợi bất chính để xử lý trách nhiệm hình sự. Trường hợp cho vay lãi nặng đã hết thời hạn vay theo thỏa thuận thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay phải trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của BLDS trong cả kỳ hạn vay.

Trường hợp cho vay lãi nặng chưa hết thời hạn vay theo thỏa thuận mà bị phát hiện thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay phải trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của BLDS tính đến thời điểm cơ quan có thẩm quyền phát hiện và ngăn chặn.

Trường hợp bên vay đã trả tiền lãi trước hạn và các khoản thu trái pháp luật khác thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay thực tế đã trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của BLDS".

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể

Điều 7 Nghị quyết đã hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể. Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà số tiền thu lợi bất chính của mỗi lần phạm tội từ 30.000.000 đồng trở lên, nếu mỗi lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của BLHS.

Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng mà các lần thu lợi bất chính đều dưới 30.000.000 đồng nhưng tổng số tiền thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên và các hành vi này chưa lần nào bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần cho vay lãi nặng, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của BLHS.

Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, trong đó có một lần cho vay lãi nặng, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên và hành vi cho vay lãi nặng này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; còn các hành vi cho vay lãi nặng khác thu lợi bất chính dưới 30.000.000 đồng, các hành vi này chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần cho vay lãi nặng, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của BLHS.

Trường hợp người cho vay lãi nặng thực hiện nhiều hành vi khác nhau liên quan đến việc đòi nợ (như: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần, gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe hoặc có hành vi khác để lấy tài sản,…) thì tùy từng trường hợp họ còn bị xử lý hình sự về tội phạm tương ứng, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Trường hợp người cho vay lãi nặng nhằm thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên, nhưng vì nguyên nhân ngoài ý muốn mà người cho vay chưa thu lợi bất chính hoặc đã thu lợi bất chính dưới 30.000.000 đồng, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính mà họ nhằm đạt được. Việc xác định số tiền thu lợi bất chính được thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 6 Nghị quyết này. Khi quyết định hình phạt, Tòa án áp dụng Điều 15 và khoản 3 Điều 57 của BLHS về phạm tội chưa đạt.

Ngoài ra, Nghị quyết còn hướng dẫn đối với trường hợp người phạm tội đã bị xét xử trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực theo đúng các quy định, hướng dẫn trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì không căn cứ vào Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Luật sư HOÀNG PHƯƠNG TRANG

Công ty luật Vietthink

Phân biệt tội danh quy định tại Điều 359 và Điều 341 Bộ luật Hình sự

Lê Minh Hoàng