Theo Luật sư Bùi Đức Nhã, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết, tại khoản 3 Điều 113 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định, người lao động (NLĐ) thuộc trường hợp do thôi việc hoặc bị mất việc làm mà mà chưa nghỉ hằng năm hay chưa nghỉ hết số lượng ngày nghỉ hằng năm theo quy định pháp luật, thì NLĐ sẽ được người sử dụng lao động (NSDLĐ) thanh toán tiền lương với những số ngày chưa nghỉ.
Như vậy, dựa theo quy định trên thì nghỉ hưu thuộc trường hợp thôi việc nên nếu NLĐ nghỉ hưu sẽ được thanh toán phép năm chưa nghỉ.

Ảnh minh họa.
Về cách tính tiền lương cho những ngày nghỉ phép năm, khoản 3, Điều 67 Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định, tiền lương làm căn cứ trả cho người lao động những ngày chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm theo khoản 3 Điều 113 của Bộ luật Lao động là tiền lương theo hợp đồng lao động của tháng trước liền kề tháng người lao động thôi việc, bị mất việc làm.
Do đó, số tiền lương của NLĐ được trả cho những ngày chưa nghỉ phép năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày phép năm là tiền lương theo HĐLĐ của tháng trước liền kề tháng mà NLĐ bị mất việc làm hay thôi việc.
Cụ thể: Tiền lương những ngày chưa nghỉ hoặc chưa nghỉ hết phép năm = Tiền lương của tháng trước liền kề theo HĐLĐ : Số ngày tính công làm việc của tháng trước liền kề x Số ngày chưa nghỉ hoặc chưa nghỉ hết phép năm.
Cũng theo Luật sư, vấn đề nghỉ phép hàng năm thường linh động theo nhu cầu của NLĐ. NSDLĐ không có quyền buộc NLĐ phải nghỉ làm việc để thanh lý phép năm.
Căn cứ theo khoản 4, Điều 113 Bộ luật lao động năm 2019 quy định về vấn đề này như sau:
- NSDLĐ tham khảo ý kiến của NLĐ và sau đó có trách nhiệm quy định về lịch nghỉ hàng năm;
- NSDLĐ thông báo trước lịch cho NLĐ biết, sau đó mới áp dụng thực hiện;
- NLĐ có thể thỏa thuận với NSDLĐ về việc nghỉ phép năm thành nhiều lần hoặc nghỉ gộp 03 năm một lần nghỉ.
Trên thực tế, để tránh việc NLĐ dồn nghỉ phép vào cuối năm thì NSDLĐ có thể yêu cầu NLĐ bố trí nghỉ bớt số ngày phép để không làm ảnh hưởng đến tiến độ công việc. Khi NSDLĐ ban hành lịch nghỉ phép năm thì phải tham khảo ý kiến và thông báo trước tới NLĐ. Trường hợp NSDLĐ không thông báo, tự ra quyết định thì sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật.
- NSDLĐ là cá nhân sẽ bị xử phạt hành chính từ 10.000.000 đồng - 20.000.000 đồng (khoản 2, Điều 18 Nghị định 12/2022/NĐ-CP);
- NSDLĐ là tổ chức sẽ bị xử phạt hành chính gấp đôi là từ 20.000.000 đồng - 40.000.000 đồng (khoản 1, Điều 6 Nghị định 12/2022/NĐ-CP).