Những đại dịch góp phần thay đổi lịch sử (kỳ 1)

13/04/2020 17:06 | 4 năm trước

Khi một dịch bệnh xuất hiện trên toàn cầu hoặc trên một khu vực địa lý rộng lớn, vượt qua biên giới quốc gia, ảnh hưởng đến cuộc sống và sức khoẻ của nhiều người, nó sẽ trở thành đại dịch. Trên thực tế, sự ảnh hưởng của dịch bệnh cũng góp phần lớn thay đổi lịch sử nhân loại.

Bức tranh "Bệnh dịch thành Athens" của cố hoạ sỹ nổi tiếng người Bỉ Michiel Sweerts (1652-1654).

Cuộc sống của con người ngày càng văn minh hơn, các tuyến giao thương hay các cuộc chiến mở rộng lãnh thổ đã khiến các loại dịch bệnh dễ dàng lây lan nhiều hơn. Cùng điểm lại những đại dịch tồi tệ nhất đã góp phần thay đổi lịch sử nhân loại.

Dịch bệnh Athens (năm 430 trước Công nguyên)

Dịch bệnh Athens là đại dịch đã tàn phá thành phố Athens, Hy Lạp cổ đại trong Chiến tranh Peloponnesian (430 TCN). Khi bị Sparta tấn công, nhiều người từ nông thôn kéo về thành Athens lánh nạn. Quá tải về dân số, các khu vực cư dân nghèo, vệ sinh kém, thiếu hụt thực phẩm và y tế… là các điều kiện thuận lợi để một loại bệnh truyền nhiễm phát sinh và nhanh chóng lây lan khắp thành.

Dịch bệnh Athens có các triệu chứng giống thương hàn, bao gồm, sốt, khát nước, cổ họng và lưỡi chảy máu, da đỏ và bị tổn thương. Dịch bệnh đã làm suy giảm đáng kể dân số thành Athens, trở thành một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên thất bại của họ trước người Sparta.

Trước khi gây ra cái chết cho hơn 2/3 dân số Athens, dịch bệnh này đã xuất hiện ở Libya, Ethiopia và Ai Cập.

Bệnh dịch hạch Antonine (năm 165 sau Công nguyên)

Bệnh dịch hạch Antonine còn được gọi là bệnh dịch hạch Galen, đặt theo tên của một bác sĩ Hy Lạp sống ở La Mã, người đã mô tả lại biểu hiện của căn bệnh này. Các học giả đã nghi ngờ đây là sự xuất hiện sớm của bệnh đậu mùa. Căn bệnh xuất hiện đầu tiên ở người Huns, sau đó lây nhiễm cho các binh sỹ La Mã và tiếp tục lan rộng khắp đế chế La Mã qua các cuộc chiến.

Hình ảnh Tử thần đang phá một cánh cửa trong thời gian bệnh dịch hạch hoành hành ở Rome (Italy) được khắc bởi hoạ sỹ Jules-Elie Delaunay. (Nguồn: Wikipedia)

Các triệu chứng bệnh bao gồm sốt, đau họng, tiêu chảy và xuất hiện các vết loét đầy mủ. Bệnh dịch này thường xuyên bùng phát trở lại đến năm 180 sau Công nguyên.

Cho đến nay, người ta vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân thực sự gây ra căn bệnh này. Dịch bệnh đã khiến khoảng hơn 5 triệu người tử vong, tàn sát quân đội La Mã, trong đó có Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius.

Bệnh dịch hạch Cyprian (năm 250 sau Công nguyên)

Bệnh được đặt theo tên của vị Thánh Cyprian, người được cho là trường hợp đầu tiên mắc bệnh. Ông đã ghi chép lại những biểu hiện của căn bệnh này như tiêu chảy, nôn mửa, loét cổ họng, sốt, hoại tử tay và chân.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, bệnh dịch hạch Cyprian xuất phát từ Ethiopia, vượt qua Bắc Phi vào Rome và lan tới Ai Cập. Người dân ở vùng bị ảnh hưởng đã di cư đi để tránh dịch bệnh, nhưng họ không hề biết rằng, hành động đó đã làm cho căn bệnh ngày càng lan rộng.

Trong khoảng 3 thế kỉ sau đó, những đợt bùng phát dịch định kỳ vẫn tiếp tục diễn ra. Năm 444, bệnh đã xuất hiện tại Anh và cản trở các nỗ lực phòng thủ chống lại người Picts và người Scotland của người Anh, khiến họ phải tìm sự giúp đỡ từ người Saxon - những người thống trị lãnh địa này về sau.

Bệnh dịch hạch Justinian (năm 541 sau Công nguyên)

Xuất hiện đầu tiên ở Ai Cập, bệnh dịch hạch Justinian lây lan khắp Palestine và Đế quốc Byzantine (nằm ở phía Đông của đế quốc La Mã sau này) rồi tiến thẳng về Địa Trung Hải.

Bệnh dịch hạch Justinian được ghi nhận là đợt dịch hạch đầu tiên của nhân loại. Bệnh lây lan nhanh chóng vì mầm bệnh nằm trong chuột và bọ chét, những con vật có mặt ở khắp nơi. Theo ước tính, căn bệnh này có thể là nguyên nhân gây tử vong cho 40% dân số trong thành phố Constantiople và 1/4 dân số ở phía Đông Địa Trung Hải, khiến tổng số nạn nhân lên đến hơn 50 triệu người (chiếm 26% dân số thế giới).

Dịch bệnh này đã cản trở kế hoạch thống nhất Đế chế La Mã của Hoàng đế Justinian, đồng thời khiến nền kinh tế của Đế quốc Byzantine thiệt hại nặng nề.

Sự lây lan nhanh chóng của dịch bệnh khiến nhiều người chết đã tạo ra một bầu không khí tận thế ảm đạm. Trước sự bất lực và tuyệt vọng, con người đã đặt niềm tin và thần linh, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến đạo Cơ Đốc giáo phát triển trong giai đoạn này.

Bệnh phong (thế kỷ XI)

Bệnh phong (còn gọi là bệnh hủi, cùi hay bệnh Hansen) do vi khuẩn Mycobacterium leprae gây ra. Vào thời kì trung cổ ở châu Âu, bệnh phong đã trở thành một đại dịch. Để có thể chữa trị số lượng lớn nạn nhân bị nhiễm bệnh và tránh sự lây lan, nhiều nơi đã phải xây dựng các bệnh viện đặc trị căn bệnh này.

Trước kia, người ta cho rằng, căn bệnh này là một hình phạt từ Chúa giáng xuống các gia đình, bởi bệnh phong là bệnh nan y (không có thuốc chữa), các triệu chứng của nó khi ở giai đoạn nặng rất đáng sợ (rụng ngón tay ngón chân, mặt mũi biến dạng). Chính sự mê tín này đã dẫn đến những đánh giá không đúng về đạo đức của người bệnh. Họ bị xa lánh, thậm chí còn ngược đãi như thả trôi sông, chôn sống, bỏ vào rừng cho thú dữ ǎn thịt.

Ngày nay, tuy có thể chữa khỏi một cách dễ dàng mà không tốn kém nhiều chi phí nhưng căn bệnh này vẫn khiến hàng chục ngàn người mắc phải mỗi năm trên toàn thế giới và có thể gây tử vong nếu không được điều trị bằng kháng sinh.

Cái chết Đen (The Black Plague, năm 1350)

Bức tranh "Miniature" của hoạ sỹ Pierart dou Tielt miêu tả cảnh người dân ở Tournai (Bỉ) chôn cất các nạn nhân của dịch bệnh Cái chết đen. (Nguồn: Wikipedia)

Là nguyên nhân gây ra tử vong của 75 triệu người (1/3 dân số thế giới), lần xuất hiện thứ hai của bệnh dịch hạch được đặt tên là Cái chết đen này bắt nguồn từ châu Á, sau đó mầm bệnh theo đoàn người di cư, thương nhân và các đoàn lữ hành về phía Tây rồi lây lan sang khắp châu Âu và cả châu Phi một cách nhanh chóng.

Trong ba năm liên tục (1347-1350) số nạn nhân tử vong nhiều đến nỗi người ta không kịp xử lý các thi thể, khiến chúng bị thối rữa bốc mùi hôi thối. Ước tính, hơn 25 triệu dân châu Âu đã thiệt mạng trong đại dịch này.

Dịch bệnh cũng khiến Anh và Pháp tạm thời đình chiến vì không thể kiểm soát được sự lây lan. Căn bệnh này đã giết chết 1/3 dân số nước Anh, để lại một sự thiếu hụt nghiêm trọng về lao động nông nghiệp và binh sỹ quân đội. Người Viking cũng đã mất đi nguồn lực để tham gia cuộc chiến chống lại dân bản địa, đồng thời, họ cũng phải dừng lại cuộc thám hiểm Bắc Mỹ.

Thời kì trao đổi Columbus (năm 1492)

Người Tây Ban Nha xuất hiện tại vùng Caribbean đã mang theo những căn bệnh từ châu Âu như đậu mùa, sởi và nhiều bệnh dịch khác. Vì trước đây chưa từng mắc những căn bệnh này nên người dân bản địa không có sẵn kháng thể miễn dịch. Gần 90% dân số ở phía Bắc và Nam vùng Caribbean đã thiệt mạng bởi các dịch bệnh.

Khi Columbus đặt chân lên hòn đảo Hispaniola, có khoảng 60.000 người Taino sinh sống tại đây. Đến năm 1548, con số này còn ít hơn 500 người. Một "nạn nhân" khác của các dịch bệnh là đế chế Aztec. Năm 1520, đế chế này đã bị tận diệt bởi căn bệnh đậu mùa do lây nhiễm từ những nô lệ châu Phi.

Một nghiên cứu vào năm 2019 kết luận rằng, khoảng 56 triệu dân châu Mỹ bản địa đã chết vào thế kỉ thứ XVI - XVII, nguyên nhân chính là do các bệnh dịch hay sự biến đổi khí hậu do phá rừng.

Theo History/TG&VN

/luat-su-ngo-ba-thanh-nguoi-phu-nu-viet-nam-tieu-bieu.html